POÈMES D’AMOUR - NGUYỄN THANH
T H Ơ T Ì NH
Song ngữ
. Rien n’est plus précieux que l’Indépendance et la Liberté.
Ho Chi Minh
Không có gì quý hơn Độc lập Tự do
Hồ Chí Minh
. Lotus est la plus belle fleur à Thap Muoi
Viet Nam est le plus beau pays avec l’Oncle Ho.
Bao Đinh Giang
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Nước Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Bảo Định Giang
. Plaisir d’amour ne dure qu’un moment
Chagrin d’amour dure toute la vie.
Chanson francaise.
Vui tình ái chỉ phù du khoảnh khắc
Buồn yêu đương dằn vật suốt trăm năm.
Khúc ca Phá
. Aimer, c’est mourir un peu dans son coeur.
Xuan Dieu
Yêu là chết ở trong lòng một ít.
Xuân Diệu
Avant-propos
Nguyen Thanh, mon ami littéraire aimait passionnément la poésie lors de son enfance. Il se plait aussi à composer le poème. Il a certains poèmes considérés bien par ses amis.
Maintenant, il traduit aussi des vers. Faire de la poésie est déjà difficile. Traduire le poème est de plus scabreux.
Cultiver les vers, c’est verser le courant des émotions de son coeur à celui de ses amis intimes. Traduire le poème, c’est recueillir chaque goute d’eau claire confusée avec celle de
sang rouge du coeur de ceux qui sont en harmonie avec eux-mêmes. Forcer pour le condenser, souffler sur les vers le soupir et l’odeur de fragrance, les aider à ressusciter, puis continuer à les envoyer à combien de coeurs syntones. Que de difficulté ! Que de réflexion ! Traduire est quelquesfois trahir. Car, comment transmet-on du tout la mélodie, la couleur, la spécialité d’un langage poétique d’un pays à celui de l’autre. C’est à dire, mon ami a traduit le poème par toute sa passion pour la fragrance et la beauté du monde entier. Peut être, il y a des mots qui ne sont pas encore heureux, des idées qui ne sont pas encore exprimées ingénieusement. Mais la réception sincère a été montrée dans chaque mot et chaque phrase. C’est précieux en ce point, chez le coeur qui voudrait embellir la vie par une partie du jeu distinguée.
Je souhaite les confidents prêt à passer au jeu d’une attitude très sympathique et très bienveillante.
Respectueusement
Mai Duy Khôi
15. 12. 2003
Lời ngỏ
Nguyễn Thanh - bạn văn của tôi yêu thơ từ nhỏ.
Anh lại thích làm thơ. Một số bài thơ của anhđược bạn bè trân trọng.
Bây giờ anh lại dịch thơ. Làm thơ đã khó. Dịch thơ lại càng khó hơn.
Là thơ là rót dòng cảm xúc từ trái tim mình đến tim tri kỷ. Dịch thơ là hứng từng giọt nước trong lẫn giọt máu hồng từ trái tim đồng điệu. Bắt nó ngưng đọng, phả vào nó hơi thở và mùi hương giúp nó hồi sinh - rồi tiếp tục gởi nó đến bao trái tim đồng cảm. Gian nan mấy tầng. Nghĩ suy lắm nỗi. Dịch có khi lại là phản. Bởi làm sao chuyển hết cái điệu, cái sắc, cái nét riêng từ ngôn ngữ thơ của nước này đến ngôn ngữ thơ nước khác. Nghĩa là bạn tôi đã dịch thơ bằng cả tấm lòng say sưa yêu mến cái hương sắc bốn phương. Có thể có những từ chưa đạt, những cách diễn chưa nhuần. Nhưng sự cảm thụ chân thành đã biểu hiện qua từng chữ, từng câu. Quý là ở chỗ ấy - ở chỗ cái tâm muốn làm đẹp cho đời qua một thú chơi tao nhã.
Mong những tấm lòng tri kỷ hãy bước vào cuộc chơi thật thông cảm, thật bao dong.
Trân trọng
M. D. K
Introduction
Il semble que, qui apprend Littérature ou Langues Étrangères, aime aussi la poésie. En ayant enseigné le Francais et l’Anglais depuis longtemps dans l’école, j’ai déjà compris, bien de beaux poèmes qui peuvent être traduits d’une langue à une autre, surtout les oeuvres de grands poètes du monde.
Pour cette raison, profitant de temps libres, j’ai choisi un nombre de jolis vers considérés comme des perles précieuses et rares dans la culture humaine.
Premièrement, je me suis enhardi à traduire certains jolis vers les plus connus dans le trésor de la poésie vietnamienne dont les auteurs sont des poètes célèbres ci-suivant: Ho Chi Minh, To Huu, Xuan Dieu, Nguyen Binh, Luu Trong Lu, Ho Dzenh, The Lu, Vu Hoang Chuong, T. T. Kh… La plupart des poèmes que j’ai choisi sont lyriques et d’amour. Car, je pense que n’importe quel temps et quel lieu, la Littérature et l’Art sont toujours d’originaires de sentiment et de l’amour.
Secondement, je continue à traduire des poèmes francais et chinois dont les auteurs sont: Lamartine, Victor Hugo, A. de Vigny, A. de Musset, Théophile Gautier, P. Verlaine, Baudelaire, Félix Arvers, H. de Régnier,… Truong Ke, Thoi Hieu, Thoi Ho, Do Muc… afin de nos lecteurs puissent apprécier un peu de la littérature francaise et chinoise.
A la fin, je pense aussi, il y a peut être des fautes et des insuffisances dans cette petite anthologie. Je recevrai sincèrement des critiques et de bonnes idées de tout le monde pour l’améliorer dans l’impression prochaine.
Nguyen Thanh
Dường như ai học văn chương hay ngoại ngữ đều yêu thích thơ ca. Trong thời gian lâu dạy tiếng Pháp và tiếng Anh ở nhà trường, tôi đã nhận ra nhiều bài thơ hay có thể dịch từ ngôn ngữ này sang tiếng nước khác nhất là tác phẩm của những nhà thơ lớn trên thế giới.
Do vậy, tranh thủ thì giờ rảnh rổi, tôi chọn một số câu thơ hay được coi như là những viên ngọc quý hiếm trong nền văn hóa nhân loại.
Trước hết, tôi mạnh dạn vài câu thơ đẹp nổi tiếng trong kho tàng thơ ca Việt Nam mà tác giả là nhũng thi sĩ trứ danh như: Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, T. T. Kh,…Phần lớn nhũng bài thơ được chọn là thơ trữ tình và thơ tình. Vì lẽ, tôi nghĩ, ở bất cứ thời đại không gian nào, văn chương và nghệ thuật cũng luôn bắt nguồn từ tình cảm và tình yêu.
Thứ đến, tôi tiếp tục dịch thơ Pháp và thơ Trung Hoa mà các tác giả là: Lamartine, Victor Hugo, A. de Vigny, A. de Musset, Théophile Gautier, P. Verlaine, Baudelaire, Félix Arvers, H. de Régnier,… Trương Kế, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Đỗ Mục… để bạn đọc có thể đánh giá phần nào văn chương Pháp và Trung Hoa.
Sau hết, tôi nghĩ cũng có thể có lầm lỗi và thiếu sót trong tập thơ tuyển nhỏ bé này. Tôi xin chân thành đón nhận lời phê phán và ý kiến xây dựng của các bạn để hoàn thiện tập sách trong lần in kỳ sau.
N. T
PHẦN I - PART I
NHỮNG CÂU THƠ ĐẸP - DE BEAUX VERS
Hà Nội sang thu
Trời không nắng cũng không mưa,
Chỉ hiu hiu gió cho vừa nhớ nhung.
Hồ Dzếnh
. Ha Noi en Automne
Il ne fait ni soleil ni pluie,
Il n’y a que la brise pour assez se souvenir.
H. D
. Một mùa đông
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ;
Ai bảo em ngồi cửa sổ
Cho vương víu nợ thi nhân
Lưu Trọng Lư
. Un hiver
À cause de toi étant belle jeune fille
Qui me fait souffrir dans la vie;
Car tu t’assieds près de la fenêtre
Ca me fait engager à la dette originelle du poète.
L. T. L
. Đến mùa thi
Mùa thi gần đến, em Thơ,
Cái hôn âu yếm xin chờ năm sau.
Xuân Diệu
. Près de la saison d’examen
La saison d’examen s’approche, ma Muse
Sur le tendre baiser, attends - le l’année prochaine.
X. D
. Gió chiều
Gió chiều như giục cơn buồn.
Nguyễn Du (Truyện Kiều)
. Le vent du soir
Le vent du soir semblait inspirer de la tristesse.
N. D
Nhà tôi
Mười lăm hăm bảy Duy Tân,
Ai thương thì đến, lạnh lùng thì xa.
Ngũ Lang
* 15/27 Duy Tân, nay là đường Hoàng Văn Thụ, Cần Thơ
5b. Ma maison
Quinze sur Sept Duy Tan
Qui l’aime, y vient; indifférent, s’en va.
N. L
Tương tư - Chiều
Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm,
Anh nhớ em, em hỡi, anh nhớ em
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm
Mà ánh sáng mờ dần cùng bóng tối.
Xuân Diệu
Langueur d’amour - Le soir
Il fait froid aujourd’hui, le soleil se couche tôt
Je me te souviens, ma chère, je me te souviens
Rien n’est plus triste que le soir calme
Et la lumière voillée peu à peu avec les ténèbres.
X. D
Tương ngộ
Có những dòng sông chảy rất mau,
Sá chi nghĩa bến với duyên cầu;
Lá vàng hoa đỏ trôi không kịp,
Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau.
Nguyễn Bính
Se rencontrer
Il y a des courants coulant trop vite
Qu’importe pour l’attache de la relache et du pont;
Des feuilles jaunes et des fleurs rouges qui ne s’écoulent pas à temps,
On surprit en allant à l’aventure à rencontrer l’un l’autre.
N. B
Nghìn năm thương nhớ
Lân la người khách lạ nên quen
Rồi ngón tay tình chắp mối duyên;
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên.
Thế Lữ (Mấy vần thơ)
Se souvenir de mille ans
De proche en proche, l’hôte étranger devient familier
Puis, les doigts d’amour renouent des noeuds du sort prédestiné de l’amour.
À cette époque initiale pleine de regret,
Par mille ans, qui n’est pas encore facile d’en oublier ?
T. L
Lạ - Xa
Vẫn một đường nhưng vẫn lạ nhau
Như dòng sông lạ một nhịp cầu;
Trọn đời thương lắm mà xa lắm
Xa cả thề xưa lẫn hẹn sau.
Mai Duy Khôi
Étranger - Éloigné
En même route, mais encore étranger l’un l’autre
Comme le courant étranger avec une travée;
Aimer bien toute la vie mais aussi très éloigné
Loin d’ancienne promesse et aussi loin en harmonie prochaine.
M. D. K
* *
*
Tương tư
Tương tư không biết cái làm sao,
Muốn vẽ mà chơi vẽ đặng nào.
Nguyễn Công Trứ
Langueur amoureuse
Langueur amoureuse, c’est sans savoir comment
Je peux la peindre pour jouer mais ne la faire rien.
N. C. T
Tình trai
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine:
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men;
Say thơ xa lạ, mê tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.
Xuân Diệu
L’amour male
Je me rappelle Rimbaud et Verlaine:
Deux jeunes poètes éblouis à l’effuve de l’alcool;
Qui sont ivres de la poésie étrangère
Et qui se passionnent pour l’amitié,
Et méprisent du cadre éculé et abandonnent du passage familier.
X. D
* *
*
Mắt tịch liêu
Bên tách cà phê giữa quán nghèo
Có chàng thi sĩ mặt đăm chiêu
Như thương cảm với người xa lạ,
Ngồi viết bài thơ mắt tịch liêu.
Ngũ Lang (Nét đan buồn)
Yeux calmes
À côté de la tasse du café
Il existe un jeune poète, à la face pleine de méditation.
Comme étant touché de compassion avec la jeune fille étrangère
Qui s’assoyait à écrire le poème intitulé “Yeux calmes”.
N. L
* *
*
Một nửa
Khi làm thi sĩ, lúc Tây đoan
Nửa việc nhà thơ, nửa việc quan.
Xuân Diệu
. Moitié
Tant tôt à la place du poète, tantôt à celle du douannier francais,
J’ai une demi affaire de poète et une demie de l’officier .
X. D
. Tương tư - Chiều
Anh một mình nghe tất cả buổi chiều
Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh;
Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi !
Xuân Diệu
Langueur amoureuse – Soir
J’entends solitairement tous les soirs,
Qui pénètrent peu à peu mon âme déserte;
Je me rappelle ta voix, ton apparence et ta photo,
Je me te souviens, je me te souviens bien, ma chère.
X. D
Nhớ nhung
Em nói trong thơ mấy bữa rày
“Sao mà bươm bướm cứ đua bay;
Chao ôi ! Em nhớ, ôi em nhớ,
Em gọi thầm anh suốt cả ngày.
Xuân Diệu (Thơ thơ)
Nostalgie d’amant
Tu as dit que, dans ta lettre, ces derniers jours-là
“Pourquoi des papillons volaient-ils à l’envie sans cesse;
Hélas ! Que je me te souviens ! Oh ! Que je me te souviens,
Je me t’appelle en secret tout le jour, mon cher.
X. D
Là thi sĩ
Là thi sĩ nghĩa là rung với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẫn cùng mây;
Để tâm hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến
Đây là quán tha hồ muôn khách đến,
Đây là bình thu hẹp trí muôn phương,
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc…
Xuân Diệu (Thơ thơ)
Le poète
Poète, c’est à dire celui qui est touché du vent,
Rêve sur la lune et laisse errer suivant les nuages,
Laisse son âme lier de nombreux liens,
Ou partage de cent sortes d’affection.
C’est l’auberge où viennent librement de nombreux ho6tes;
C’est le flacon qui restreint l’esprit de tout le monde;
C’est le jardin où rejettent les graines des oiseaux du monde entier
Dans lequel se me6lent des fleurs à miel sucré aux fruits vireux.
X. D
Bức thư thứ nhất
Thư thì mỏng như cuộc đời mộng ảo,
Tình thì buồn như tất cả chia ly,
Giấy phong kín mang thầm tronng túi áo
Mãi trăm lần chép lại mới đưa đi.
Xuân Diệu
La première lettre d’amour
Les feuilles de lettres sont aussi minces que la vie illusoire
L’amour est aussi triste que toute la séparation;
Le papier couvert en secret porté toujours dans la poche de chemise
Est envoyé après avoir été copi de milles fois.
X. D
Mắt em
Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặn rong dòng mắt em.
Lưu Trọng Lư (Trăng lên-Tiếng thu)
Tes yeux
Tes yeux sont des courants du fleuve
Dans lesquels, mon bateau d’amour est en navigation.
L. T. L
Yêu
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu;
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu,
Người ta phụ, hay thờ ơ chẳng biết.
Xuân Diệu
Aimer
Aimer, c’est mourir un peu dans son coeur,
Car, rarement, on est aimé en aimant;
Donner abondamment mais recevoir peu de quantité,
On est infidèle, indifférent ou sans savoir.
X. D
* *
Cần Thơ
Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai đi đến đó lòng không muốn về
Ca dao
Can Tho
Can Tho avec du riz blanc et de l’eau claire
Qui y est venu, au centre de son coeur, ne désire pas rentrer.
Chanson populaire
Miễn cưỡng
Anh biết ngày mai em lấy chồng,
Anh về lấy vợ, thế là xong;
Vợ anh không giống em là mấy,
Anh lấy cho anh đỡ lạnh lòng.
Thơ nhại T. T. Kh
À contre-coeur
Je sais que tu te marieras demain,
Je rentre pour me marier; celà est fini
Ma femme ne te ressemble pas beaucoup,
Mais je le fais pour diminuer un peu de la froidure dans mon coeur.
Parodié T. T. Kh
Định nghĩa
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề,
Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Hồ Dzếnh (Ngập ngừng)
Définition sur la vie et l’amour
L’amour perd de la joie quand on tient pleinement sa promesse,
La vie n’est que belle qand elle cesse à mi-chemin.
H. D
Ngộ
Anh biết em đi chẳng trở về,
Dặm ngàn liễu khuất dưới sương che;
Em đừng quay lại nhìn anh nữa,
Anh biết em đi chẳng trở về.
Thái Can (Anh biết em đi chẳng trở về)
Reconnaissance
Ma chère, je sais que tu es partie et ne reviendras plus
Dans la longue route dissimulée de suales, dans le brouillard;
Ne tourne plus pour me regarder, s’il te plait
Je sais que tu es partie et ne reviendras plus.
T. C
Tương tư
Tương tư có nghĩa đôi bờ ngóng
Anh một mình thôi cũng đợi chờ.
Xuân Diệu
Langueur amoureuse
Langueur amoureuse, c’est attendre avec impatience de deux bords opposés
Moi, tout seul, j’attends longuement aussi quelqu’une.
X. D
Muộn màng
Anh biết yêu em đã muộn màng,
Nhưng mà ai cưỡng đượ tình thương;
Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc,
Anh chỉ xin về một chút hương.
Xuân Diệu
Le retard
Je comprends que je suis trop tard de t’aimer,
Mais qui résiste mon affection;
Je m’attendris à t’offrir plein d’adversité
Je ne te demande que, pour moi, un peu de fragrance.
X. D
Khát vọng
Em là giải Ngân Hà,
Anh là chim ô thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Mỗi đêm một lần qua.
Lưu Trọng Lư (Một mùa đông)
L’aspiration
Tu es la Voie Lactée
Je suis le corbeau;
J’ouvre le pont de promesse
Pour le traverser une fois chaque nuit.
L. T. L
Tình yêu
Chưa biết tên nàng, biết tuổi nàng
Mà sầu trong dạ đã mang mang;
Tình yêu như bóng trăng hiu quạnh
Lặng lẽ đêm trường dãi gió sương.
Lưu Trọng Lư (Tiếng thu)
L’amour
Je ne sais pas encore son nom et son âge
Mais je me sens triste immensément dans mon coeur;
L’amour est comme la silhouette de la lune
Qui subit silencieusement de vent et de brouillard dans la nuit éterrnelle.
L. T. L
Tiếng hát
Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền,
Êm như hơi gió thoảng cung tiên;
Cao như thông vút, buồn như liễu,
Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên.
Thế Lữ (Mấy vần thơ)
Le chant
Le son du chant est comme l’eau de la source à gemme
Doux comme le vent soufflant lègèrement à travers le palais des fées;
Haut comme des pins qui bruissent dans le vent et triste comme les saules,
Le courant ne coule plus, le nuage s’arrête et je reste aussi immobile.
T. L
Chiều
Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
Xuân Diệu (Thơ thơ)
Le soir
Ce soir, le ciel léger s’élève en haut,
Je me sens triste sans comprendre pourquoi je le suis.
X. D
Tiếng thu
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức.
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Lư Trọng Lư (Tiếng thu)
Chanson d’automne
N’entends - tu pas, ma chère
La voix plaintive de l’automne
Qui sanglote sous la lune pâlissante.
N’entends - tu pas, ma chère
Te faire sentir tumultueusement la silhouette du guerrier
Dans le coeur de sa femme solitaire
N’entends - tu pas, ma chère
Le bois d’automne
Dont les feuilles bruissent au vent;
Un cerf - cochon jaune désorienté fouille les feuilles jaunes et sèches.
L. T. L
Nhớ nhung
Thấy dừa thì nhớ Bến Tre,
Thấy sen lại nhớ đồng quê Tháp Mười;
Thấy trăng lại nhớ đến người,
Thấy sao lại nhớ đến lời thề xưa.
Nguyễn Bính
Nostalgie
En voyant le cocotier, on se rappèlle Ben Tre,
En voyant le lotus, on se rappèlle la campagne Thap Muoi.
En voyant la lune, on se souvient aussi de quelqu’une,
En voyant la lune les étoiles, on se souvient encore d’anciens serments.
N. B
Xa cách
Có một bận em ngồi xa anh quá,
Anh bảo em ngồi xít lại gần hơn;
Em xít gần hơn một chút anh hờn,
Em ngoan ngoãn xít gần hơn chút nữa.
Xuân Diệu
Distance
Il y avait une fois, tu t’assieds très loin de moi,
Je te dis à t’en asseoir plus près;
Tu te déplaces un peu, je me te fâche,
Tu es docile à te déplacer encore un peu.
X. D
Tình yêu còn lại
Yêu một phút để mang sầu trọn kiếp,
Tình mười năm còn lại mấy tờ thư.
Vũ Hoàng Chương (Lá thư ngày trước)
Le reste de l’amour
Aimer une minute mais s’ennuyer toute la vie
L’amour de dix ans reste quelques feuilles de lettre d’amour.
V. H. C
Chờ đợi hoài công
Ta đợi em từ ba mươi năm,
Uổng hoa phong nhụy, hoài trăng rằm ;
Heo may chớm đẽ lên mùa gió,
Ngăn ngắt chiêm bao, lạnh chiếu nằm.
Vũ Hoàng Chương (Chờ đợi hoài công)
Le reste de l’amour
Je vous attendis depuis trente ans
Perdre inutilement des fleurs couvertes pistils et la pleine lune
Le vent roux souffle tôt dans la saison du vent
Étant extrêmement en songe et froid dans la natte à coucher.
V. H. C
. *Phiên âm Hán Việt Đề tích sở kiến xứ
Khứ niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng;
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
* Transcription phonétique Thôi Hộ (Thơ Đường-Trần Trọng San)
en Chinois-Vietnamien
* Dịch ra thơ Việt Đề vào chỗ này năm trước
Ngày này, năm ngoái, cửa này
Hoa đào phản chiếu mặt ai ửng đào
Người xưa giờ ở nơi nao
Hoa đào vẫn đó cười chào gió đông
Nguyễn Thanh
35b. Ecrit ici un poème, l’an passé
L’an passé, ce jour-là, au centre de ce portail,
La face de quelqu’une, la fleur du pêcher est également rose;
Sa face,maintenant, je ne sais pas où es t- elle
La fleur du pêcher comme l’antan, sourit encore à la brise.
T. H
. . *Phiên âm Hán Việt Bạc Tần Hoài
Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia;
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa.
* Transcription phonétique en Chinois-Vietnamien Đỗ Mục (Thơ Đường-Trần Trọng San)
* Dịch ra thơ Việt
Đêm ghé bến Tần Hoài
Khói giăng sông lạnh, trăng in cát,
Đêm ghé bến Tần, cạnh tửu gia;
Ca sĩ hay đâu hờn nước mất
Bên sông hát khúc Hậu Đình Hoa.
Abordé au port Tan Hoai, la nuit
La fumée voilait au – dessus du courant froid et
la lune éclairait le terrain de sable,
La nuit, ayant abordé au port Tan Hoai, près de la taverne,
La chanteuse qui n’eut compris pas le ressentiment
de perdre sa patrie;
Au port opposé du fleuve, a chanté Hau Dinh Hoa.
Phiên âm Hán Việt Phong Kiều dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề, sương mã thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên;
Cô Tô thành ngoại hàn san tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
* Transcription phonétique Trương Kế (Thơ Đường-Trần Trọng San)
en Chinois-Vietnamien
Dịch ra thơ Việt Đêm ghé bến Phong Kiều
Trăng tà tiếng quạ lẫn sương rơi
Sầu đượm hàng phong giấc lửa chài;
Ngoài ải Cô Tô, chùa vắng vẻ,
Nửa đêm chuông vọng đến thuyền ai.
T. K
Abordé au port Phong Kieu, la nuit
La lune s’est couchée, le corbeau a crié
et le brouillard a voilé le ciel;
Sur le bord du fleuve, le badamier, la lampe
du pêcheur dort également d’une manière triste.
Minuit, ayant entendu le son de la cloche de pagode
Han San en dehors du rempart.
T.K
. Phiên âm Hán Việt* Hoàng hạc Lâu
Nhật mộ hương qua hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
* Transcription phonétique Thôi Hiệu (Hoàng Hạc Lâu)
en Chinois-Vietnamien
Dịch ra thơ Việt Lầu Hoàng Hạc
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Tản Đà dịch
Palais de Hoang Hac
Le crépuscule, en songeant à la terre natale,
Je ne sais pas où est- elle ?
La fumée au-dessus de l’eau, rend le v oyageur triste.
T. H
Tiễn chồng
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Ca dao
Reconduire le mari
Le héron plonge au bord du fleuve
Je porte une charge de riz pour mon mari
Et je vais pleurant et me lamentant.
Chanson populaire
Chốn xưa
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Nguyễn Du (Truyện Kiều)
L’Endroit ancien
Devant la maison comme derrière, on ne voit
aucune trace humaine;
Cependant, une belle fleur de pêcher survivant
de l’an passé, sourit encore à la brise de l’Est.
N. D
Trăng và Hoa
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thấm từng bông;
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu.
Đoàn Thị Điểm (Chinh phụ ngâm)
La fleur et la lune
Les fleurs baignées de lune qui s’y reflète,
La lune y pénétrant avive chaque fleur.
Lune et fleurs,fleurs et lune, elles sont incalculables;
Devant leur harmonie, que mon coeur est en peine.
D. T D
(Complainte de l’épouse du guerrier)
Phiên âm Hán Việt . Băn khoăn
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Nguyễn Du (Độc tập Tiểu Thanh ký)
Dịch ra thơ Việt Ba trăm năm nữa trong thiên hạ,
Không biết còn ai khóc Tố Như.
N. T
Le souci
J’ignore si, dans trois cents ans
Dans le monde, quelqu’un pleurera To Nhu *
* To Nhu: Pseudonyme de Nguyen Du
l’auteur de Truyen Kieu
Độc thân
Gái không chồng như nhà không nóc
Trai không vợ như cọc long chân.
Ca dao
Célibataire
La fille sans mari est comme une maison sans toiture,
Le garcon sans femme est comme un piquet
dont la base branle.
Chanson populaire
Tâm trạng
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Nguyễn Du (Truyện Kiều)
44b. L’État d’âme
Quel paysage ne prortait – il pas sa tristesse,
Quand on est triste, quel paysage peut – il jamais être gai.
N. D
Thúy Kiều
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hơn kém xanh
Nguyễn Du (Truyện Kiều)
La beauté de Thuy Kieu
L’irisement de ses yeux avait la pureté des eaux automnales.
Les traits de son visage avaient la grace des montagnes printanières.
Les fleurs sont jalouses d’être moins roses Les saules sont fâchés
d’être moins verts.
D’apreès Maurice Durand
Tương ngộ
Nhớ câu bình thủy tương phùng,
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi…
Việc người chẳng khác mặt trăng trên trời;
Tuy rằng soi khắp nơi nơi,
Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy.
Nguyễn Đình Chiểu (Lục Vân Tiên)
Se rencontrer
(Luc Van Tien) se souvint alors du dicton de la lentille
De marais rencontrait l’eau.
Ainsi un héros rencontrait un autre héros…
Les affaires humaines ne sont guère differentes
de la lune au ciel.
Celle-ci bien qu’elle éclaire partout en tout lieu
Elle est parfois blafarde, parfois claire, parfois décroissante, parfois pleine.
Chinh phụ ngâm
a). Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên;
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này…
b). Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên,
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
c). Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,
Muộn chứa đầy, hãy thổi làm cơm,
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.
Đoàn Thị Điểm (Chinh phụ ngâm)
Complainte de l’épouse du guerrier
a). Lorsque la guerre éclate, fait du Créateur
Le sexe aux joues roses souffre, mille misères
Ô ciel bleu ! Qui en êtes temoin, de là-haut,
Qui a été cause de cet état de choses ?...
b). Quelques grillons crissent devant notre demeure;
Au clair de la lune. Des bananiers s’agitent
Au – delà des verandas sous un vent violent
Qui remue mes rideaux et devant mes stores.
La lune projettent l’ombre de mille fleurs…
c). Le chagrin infini s’empile tous les jours;
Je m’appuie là – dessus comme sur des coussins.
Mon coeur est gros d’ennui: j’en fait ma nourriture,
J’appelle à ma rescousse et la fleur et le vin,
Le vin s’affadit à cause de mon chagrin
Et la fleur s’étiole au contact de mon ennui.
D’après Huỳnh Lý
Tỳ bà hành
a). Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu;
Người xuống ngựa, kẻ dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty…
b). Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu;
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy,
Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu.
Trong hoa oanh ríu rít nhau,
Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Nước suối lạnh dây mành ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao ?
Cung đàn lựa khúc tiêu tao,
Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây…
c). Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm Dương đất trích gối sầ hôm mai…
d). Hãy ngồi lại gẩy chơi chút nữa,
Hãy vì nàng soạn sửa bài ca.
Đứng lâu dường cảm lời ta
Lại ngồi lựa phím dần dà kíp đây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi;
Lệ ai chan chứa hơn người,
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
Bạch Cư Dị (Tỳ Bà hành)
Bản dịch thơ tiếng Việt của Phan Huy Vịnh
La ballade de la guitare
a). Sur la berge du Tam Duong, le soir,
je raccompagnais un ami
Au souffle vital de l’automne, les roseaux solitaires
se balancaient mollement.
Je descendis de cheval, mon ami immobilisa sa rame.
Les coupes de vin couleur du rubis étaient sur le point
d’être vidées et nous nous rappelions nos parties musicales…
b). Ses doight pincaient et lâchaient les cordes avec une douceur infinie
Elle joua d’abord les ‘Robes arc – en – ciel’ puis les ‘Six Stances’
Les grosses cordes semblaient verser des rafales de pluie
Les petites cordes semblaient susurrer plaintivement
des confidences.
Les sons aigus et graves se pressaient et l’on aurait cru que
des perles rebondissaient sur un plateau de jade
Qu’au milieu des fleurs, les loriots échangaient leur gazouillis
Que les eaux des sources dans leur clapotis vivement
s’élancaient vers les rapides.
Comme l’eau d’une source que saisit le froid, les cordes soudains
arrêtèrent leur vibration
Elles arrêtèrent leurs vibrations et le silence se fit un instant
Comme si une douleur secrete rendait l’artiste hébétée
Et son attitude silencieuse augementait la beauté du moment.
Puis ce fut comme un vase d’argent qui éclate, laisse couler
son liquide sur la surface d’une eau.
Comme des chevaux ardents qui galopent, des glaives qui galopent
des glaives qui s’entrechoquent.
La guitare se mit ensuite à jouer un morceau très pur,
Et termina par un accord sur les quatre cordes évoquant
le déchirement de la soie…
c). Nous étions de la même race de ceux qui souffrent sous
la voute céleste.
Et en nous rencontrant nous nous reconnumes immédiatement
Depuis si longtemps j’avais quitté la capitale,
Et exilé à Tam Duong, soir et matin, je nourrissais ma tristesse…
d). Rasseyez-vous et jouer encore un morceau,
Et pour vous, je composerai une ballade.
Elle demeura debout, hesistante, visiblenent emue par mes paroles.
Puis s’asseyant, elle saisit son plectre et joua dans un
moment accéléré.
Les accents étaient déchirants et tous différents des
morceaux précédents.
Tous les assistants versèrent des larmes;
Mais qui en fut le plus inondé que quiconque ?
Ce fut Sénéchal de Giang Chau qui en eut sa robe verte toute trempée.
D’après Maurice Durand
Belle pensée: 1. Le monde est un bourbier, tâchons de rester sur les hauteurs.
Tư tưởng đẹp: Đời là một vũng bùn, ta hãy cố trụ lại ở chỗ trên cao
2. On entre en guerre en rentrant dans le monde.
Ta vào đời là vào ngay cuộc chiến đấu.
Victor Hugo
Nhớ người
Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa xa lắm nhớ ta không.
Trần Tế Xương (Nhớ bạn phương trời)
On se rappèlle quelqu’une
Je me souvenais de quelqu’une
Séparée par les montagnes et les fleuves;
Qui était éloignée, très éloignée
Est ce qu’elle se souvenait moi ?
T. T. X
Nhớ người
Vọng mỹ nhân hề, thiên nhất phương.
Tô Đông Pha (Tiền du Xích Bích phú)
On se souvient de quelqu’une
Attendre la Belle, hélas il n’y a qu’une seule contrée
T. D. P
Bến Ninh Kiều
Bến xa lớp lớp đò chiều,
Đêm về mở hội, Ninh Kiều đèn hoa;
Tiếng đàn quyện ấm lời ca,
Hôm nào thành phố không là hội xuân.
Ngũ Lang (Lời tự tình mùa thu)
La berge de Ninh Kieu
La berge éloignée étant abordée par les bacs d’après-midi,
La nuit tombait, le quai de Ninh Kieu organisait
la fête de l’illumination.
Le son de la guitare avait adhéré à celui des chanteurs;
Quel jour n’est-il pas la festivité printanière.
N. L
Tình gác trọ
Đón đưa chán kiếp duyên hờ,
Tình chung ai – để em chờ mắt xanh
Nguyễn Thanh (Tình khúc mùa xuân)
L’Amour de l’étage à loger
Accueillir et faire un bout de conduite à quelqu’un,
Ô que c’est ennuyeux pour l’affection provisoire;
Qui est l’être fidèle pour que j’attende aux yeux amoureux.
N. T
Thương hoài ngàn năm
Tóc mai sợi vắn, sợi dài,
Kết duyên chẳng đặng, thương hòa ngàn năm.
Ca dao ĐBSCL
L’Amour éternel
La jeune fille aux cheveux aux tempes sont à la fois courts et longs
Ne pas la marier mais l’aimer de mille ans.
Chanson populaire du Delta de Mekong
Đời vắng em rồi !
Em ơi, lửa tắt, bình khô rượu,
Đời vắng em rồi say với ai !.
Vũ Hoàng Chương (Thơ say)
Tu es absente dans ma vie
Ma chère décédée, le feu s’est éteint,le pot épuisé de vin
Dans ma vie, tu étais absente; avec quelle personne suis je-ivre ?
V. H. C
Belle pensée: Donner, c’est acquérir ; enseigner, c’est apprendre
Cho tức là được; dạy tức là học
Ngập ngừng
Em cứ hẹn nhưng em đừng đế nhé,
Để một mình, anh dạo khắp trong sân.
Ngắm trên tay, điếu thuốc cháy lùi dần,
Anh khẽ bảo : Gớm sao mà nhớ thế !
Hồ Dzếnh (Ngập ngừng)
À contre-coeur
Donner-moi rendez-vous quand – même, ma chère
mais il ne faut pas venir.
Liaisse – moi me promener solitairement partout la cour;
En regardant la cigarette qui a pris feu peu à peu,
J’ai murmuré : Que je me te souviens !
H. D
Cần Thơ
Cần Thơ có bến Ninh Kiều,
Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân.
L. H. Minh
Can Tho
Can Tho, ayant la berge Ninh Kieu,
Il en y a aussi de beaux courant et bien des Belles
L. H. Minh
Suối hương
Có ai bên cửa ngồi hong tóc,
Cho chảy lan thành một suối hương.
Hồ Dzếnh (Hồ Dzếnh, một hồn thơ đẹp)
Courant de fragrance
Il y a quelqu’une qui sechait ses cheveux,
Coulant longuement en effet, devenir un courant de fragrance.
H. D
T. 38
58a. Tuyên ngôn của nhà thơ
Từ độ về đây với xóm nghèo,
Bạn bè chỉ có gió trăng theo;
Những thằng bất nghĩa xin đừng đến,
Cứ để thềm ta xanh sắc rêu.
Nguyễn Bính (theo nhà thơ Kiên Giang)
58b. Déclaration du poète
Depuis le temps rentrant dans le quartier des pauvres,
Sur mes camarades, il n’y a que le vent et la lune
qui m’accompagnaient.
Les types infidèles, ne veuillez pas y venir,
Laisse mes pas être verts de mousse.
N. B
59a. Phôi pha
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Nguyễn Bính (Chân quê)
Origine paysanne
Hier, en revenant de ton voyage en ville
Tu as perdu un peu de ton parfum des prés.
N. B
Chàng Năm
Bút vung phượng múa rồng bay,
Chàng Năm ắt hẵn tình hoài ngàn năm;
Hẻm Vú Sữa, đường Duy Tân *
Gần nguồn sao mãi cỗi cằn chàng ôi !
Lê Văn Quới (Đặc san Trường C3/TP. Cần Thơ)
* Nay là đường Hoàng Văn Thụ, Cần Thơ
Belle pensée: Le moi est haissable (Cái tôi là đáng ghét)
Tư tưởng phương Tây
T. 39
60b. Le cinquième jeune homme
La bonne écriture et le dessin sont comme la danse
du phénix et le vol du dragon,
Le cinquième jeune homme est certainement, sentimental
toute la vie.
Il habitait la ruelle ‘ la Pomme étoilée ‘, appartenant à la rue Duy Tân,
Près de la source ‘laitière’, pourquoi étais-tu malingre
éternellement mon jeune ami !
L. V. Q
61a Dấu chân trên đường
Thôi đã tan rồi vạn gót hương
Của người đẹp tới tự trăm phương;
Tan rồi những bước không hò hẹn
Đã bước trùng nhau một ngả đường.
Huy Cận (Dấu chân trên đường)
61b. Les empreintes des pas sur la route
C’est la fin du tout, c’était dejà dispersé des milliers
de talons parfumés
Des Belles qui venaient de cent contrées lointaines;
Dispersé des pas sans rendez-vous
Qui marchaient coincidement dans un même chemin.
H. C
62a. Từ ấy
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lý chói qua tim;
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Tố Hữu (Từ ấy)
Belle pensée: Le paysage n’est qu’un état de l’âme
Ngọai cảnh chỉ là một trạng thái của tâm tư.
T. 40
62b. Depuis ce temps
Depuis ce temps, brillait le soleil d’été
Le soleil de vérité étincelait à travers mon coeur;
Mon âme est comme un jardin émaillé de
fleurs et de feuilles
Très parfumé et plein des chants des oiseaux.
T. H
163a. Thần tượng
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm,
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương.
Bích Khê
63b. L’idole
Elle est la neige ou sa paeu est-elle émaillée de neige,
Elle est fragrance ou sa beauté est-elle dégagée du parfum.
64a. Tình quê
Trước sân anh thơ thẩn,
Đăm đăm trông nhạn về;
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê.
Hàn Mặc Tử (Thơ Hàn Mặc Tử)
64b. L’Amour pastoral
Dans la cour, j’étais silencieux et rêveur
En ayant attendu fixement les hirondelles qui revolaient.
Ls nuages de l’après-midi encore menaient une vie
Aventureuse
En ayant erré au-dessus des collines de la campagne.
H. M. T
Belle pensée: 1. Plus la douleur est grande, plus il est grand de vivre.
Càng đau khổ, đời sống con người càng cao cả.
2. Le génie n’est qu’une longue patience.
Thiên tài chỉ là sự kiên nhẫn lâu dài.
T. 41 PHẦN II - PART II
THƠ TRỮ TÌNH-CHÍNH TRỊ
POÈMES LYRIQUES-POLITIQUES
65a. Nhật ký trong tù
Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao.
Hồ Chí Minh (Nhật ký trong tù)
65b. Journal en prison
Le corps est dans la prison,
L’esprit en est hors.
Plus on veut aboutir aux grandes oeuvres,
Plus il faut avoir d’haut esprit.
H. C. M
66a. Cảm tưởng đọc ‘ Thiên Gia Thi’
Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp:
Mây, gió, trăng hoa, tuyết, núi, sông;
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Hồ Chí Minh (Thơ Hồ Chí Minh)
66b. Impression après avoir lu ‘ Poèmes de Mille poètes
Les anciens poème sont attachés de beaux sites
de la nature:
Nuage, vent, lune, fleur, neige, montagne et fleuve;
Maintenant, il faut avoir de ‘fer’ dans la poésie,
Le poète doit aussi savoir montrant à l’assaut.
H. C. M
67a. Mới ra tù tập leo núi
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ;
Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.
Hồ Chí Minh (Thơ Hồ Chí Minh)
T.42 Sortant de prison, s’exercer d’escalader la montagne
67b. Les cimes de la montagne embrassaient les nuages,
Les nuages ambrassaient celles-là.
Le courant est comme un miroir brillantsans poussières.
M’étant promené dans la montagne de l’Ouest
En regardant la patrie, je m’etais rappellé
mes anciens camarades.
Hồ Chí Minh
68a Duyên tơ
Làm bí thư hoài nên bí thơ,
Rằng thơ với Đảng nặng duyên tơ.
Tố Hữu
68b. Le sort prédestiné
Étant sans cesse secrétaire, je suis sans issue
à cultiver les vers
Ainsi que moi et le Parti se lient profondément du
sort prédestiné.
Tố Hữu
69a. Đại thắng mùa xuân
Rực rỡ sao vàng, mai vĩ đại,
Năm cánh xòe lên chín cửa sông.
Nguyễn Thanh (Tạp san Văn nghệ Giải phóng
TP.Cần Thơ -1975
69b. La victoire printanière
Oh que ce sont splendides des étoiles dorées
- Fleurs grandioses d’abricots
Dont les cinq pétales s’ouvrent sur neuf branches
du fleuve.
Nguyễn Thanh
Belle pensée: Les plus désespérés sont les chants les plus beaux.
Đau thương, tiếng hát tuyệt vời.
A. de Musset
T. 43
70a. Tương tư
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Nguyễn Bính (Tuyển tập thơ Nguyễn Bính)
70b. La nostalgie d’amour
Le vent et la pluie sont des maux que le ciel se donne,
La langueur est un mal que je me suis donne en t’aimant.
D’après H. H. Đản
71a. Tự tình mùa thu
Ta đã yêu từ chớm tóc xanh,
Đêm đêm thức trắng chép thơ tình:
Đón hương góp gió muôn phương lại
Mà suốt đời ta vẫn độc hành.
Ngũ Lang (Lời tự tình mùa thu)
71b. Épanchement en automne
J’ai déjà aimé tôt lors de mon enfance,
En ayant passe la nuit blanche chaque nuit
à copier les vers d’amour;
Accueilli le parfum étrange et cotisé le vent lointain
de toutes les contrées.
Mais, toujours je me promenais solitairement
dans la vie.
Ngũ Lang
72a. Lưu luyến
Nướ có chảy, lòng phiền chẳng rửa,
Cỏ có thơm, dạ nhớ nào khuây,
Nhủ rồi tay lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Đoàn Thị Điểm (Chinh phụ ngâm)
Belle pensée: Petit à petit, l’oiseau fait son nid
Nước chảy đá mòn
T.44
72b. Quitter avec regret
L’eau coulait, mais ne pouvait effacer la tristesse de notre coeur,
Les herbes étaient parfumées mai comment auraient-elles apaise
la douleur du souvenir !
Nous nous exhortions , nous nous exhortions encore en nous
tenant les mains
Nous avancons d’un pas et à l’instant à chaque fois nous nous
arrêtions.
Complainte de la femme du guerrier
D’après M. Durand
73a. Kim Trọng
Họ Kim, tên Trọng vốn là trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Nguyễn Du (Truyện Kiều)
73b. Kim Trọng
Son nom de famille était Kim, son petit nom il était
d’une famille de lettrés;
C’était des gens opulents et généreux,des hommes de talent.
La culture littéraire etait parmi leurs vertus heriditaires et
l’intelligence un de leurs dons naturels.
Les manières, les talents, la physionomie, tout de ce
jeune homme était au-dessus du commun.
Chez lui, c’était un homme de bonnes manières, dans le monde
il était d’un commerce agréable.
D’après N. V Vĩnh.
(TRANH MINH HỌA)
T. 45
74a. Một mình
Người có đôi, ta rất một mình
Phong trần đâu dám mắt ai xanh;
Đêm nat trăng rụng về bên ấy
Gác trọ còn nguyên gió thất tình.
Nguyễn Bính (Thơ Nguyễn Bính)
74b. Seul
Les autres sont deux, je suis seul et étranger
Des yeux bleus, je n’osais rêver de toute ma vie
Aventurière;
Cette nuit, la lune tombe de l’autre côté de la rivière
Dans ma pension, le vent de l’amour décu continue à
Souffler
D’après Hoang Huu Đan
75a. Tâm hồn tôi
Tâm hồn tôi là bình rượu nhỏ
Rót lần rót mãi xuống nàng Oanh
Không xua tay nhưng nàng đẽ vô tình
Hất ly rượu hồn tôi qua cửa sổ.
Nguyễn Bính (Thơ Nguyễn Bính)
75b. Mon âme
Mon âme est un petit flacon de liqueur d’or
Que sur la belle Oanh nuit comme jour je verse
Elle ne refuse pas, mais ses doigts inconscients
par dessus la fenêtre
Effleurant la coupe de mon âme, deversent le vin
dehors.
N. B
76a. Hoa cỏ may
Hồn anh như hoa cỏ may,
Một chiều cả gió bám đầy áo em.
Nguyễn Bính (Thơ Nguyễn Bính)
T. 46
76b. Les fleurs de Chiendent
Mon ame est semblable
À des fleurs de chiendent
S’accrochant à ta robe
Par un soir de grand vent.
* *
*
(TRANH MINH HỌA)
T. 47
77a. LỜI BẠT
Vào Cõi Thơ như vào cuộc Hành Hương.
Cuộc sống ngoài kia xô bồ. Cõi Thơ là miền Thoát Tục.
Vào đây – lòng ta như đang lặng hơn và trong hơn !
Tỉnh-say, khôn-dại mặc cho thế sự nhân gian.
Lòng ta rung như tơ đàn.
Chuếnh choáng men thơ khi ngâm câu tuyệt bút.
Ai mắt trắng – Mặc biển dâu thế tục.
Ngãm ngàn xưa thanh khí hội tao phùng.
Thơ là tiếng lòng. Góp nhặt tài hoa chỉ sợ phụ lòng tri kỷ.
Thơ nhân loại cả một kho vô tận – Hái dâng đời mấy đóa –
dù trí thiển tài sơ nhưng rất mực tâm thành.
Mượn chút tình gởi người đồng điệu – những mong
lượng cả bao dung,
Lòng bỗng lặng và trong –
Ta hồ ! Văn chương thốn tâm thiên cổ !
1. 12. 01
L. H. U
(ẢNH HAY TRANH)
T. 48
77b. ÉPILOGUE
De confiance, un peu de cela….
On va en pèlerinage comme rentrant dans l’univers
de la poésie.
La vie en dehors est sans discrimination,
Rentrée ici, notre vie semble être plus calme et plus claire !
Conscient ou l’ivre, sage ou sot; tant pis pour la vie ici-bas
et les affaires du monde.
Notre coeur est en train de vibrer comme les cordes
de la guitare.
Étant un peu ivre par le ferment ‘poétique’- Inondé par
le son et la couleur.
La bouche est plus parfumée en improvisant un vers
le plus beau.
Qui a yeux blancs (qui est antisympathique) – tant pis pour
la vie pleine de vicissitudes et les affaires du monde.
En réfléchissant, de la nuit des temps à nos jours,
les confidents se sont fortuitement rencontrés.
Poésie est la voix du coeur. Recueillir les talents et
les distingués de-ci de-là , on n’est inquiet que trahir
les amis intimes.
La poésie humaine est un trésor inépuisable – On en cueille
quelques poèmes malgré l’esprit moins vif et moins
talentueux mais très sincèrement.
Empruntant un peu de sentiment pour l’envoyer aux
confidents.
Veuillez être très tolérants.
Le coeur est brusquement calme et clair.
Hélas ! Depuis la nuit des temps, les lettres s’inscrivent
profondément les voix du coeur de tout le monde.
Mai Duy Khôi
Belles pensées: 1. Dis-moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es.
Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu
2. Les yeux sont le miroir de l’âme.
Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn
3. Loin des yeux, loin du coeur
Xa mặt cách lòng.
T. 49
CHAPITRE SECOND
CHƯƠNG HAI
TRADUCTION VIETNAMIENNE
DỊCH RA TIẾNG VIỆT
T. 50
1a. L’Adieu
J’ai accueilli ce brin de bruyère,
L’automne est morte, souviens t’en ?
Nous ne verrons plus sur terre:
Odeur du temps, brin de bruyère,
Et souviens-toi que j’attends !
Apollinaire (Littérature expliquée du XXe siècle)
* Guillaume Apollinaire (1880, Rome – 1918, Paris): Poète, écrivain francais étant l’auteur des oeuvres: les Peintres cubistes 1913; Alcools 1913; Calligramme 1918; l’Esprit nouveau et les poètes 1917. Il était considéré comme un théoricien, précurseur du surréalisme (les Mamèlles de Tirésias 1917)
- Apollinaire sinh năm 1880 tại Rome và mất năm 1918 tại Paris: nhà thơ, nhà văn Pháp. Là tác giả của những tác phẩm: les Peintres cubistes 1913; Alcools 1913; Calligramme 1918; l’Esprit nouveau et les poètes 1917. Ông được coi là lý thuyết gia nhà tiền phong của trường phái siêu thực : les Mamèlles de Tirésias 1917
1b. Giã biệt
Ta ngắt một cành hoa thạch thảo,
Mùa thu đã chết, nhớ không em.
Chúng ta chẳng thấy trên đời nữa
Hương thời gian và hoa thạch thảo,
Em nhớ rằng anh vẫn chờ em.
G. A
2a. Ariettes oubliées
Il pleure dans mon coeur
Comme il pleut dans la ville;
Quelle est cette langueur
Qui pénètre mon coeur !
Ô doux bruit de la pluie,
Par terre et sur les toits
Pour un coeur qui s’ennuie,
Oh ! le chant de la pluie !
Il pleure sans raison
Dans ce coeur qui s’écoeure !
Quoi ! nulle trahison ?
Ce deuil est sans raison.
T.51 C’est bien la pire peine
De ne savoir pourquoi,
Sans amour et sans heine
Mon coeur a tant de peine.
Paul Verlaine (Littérature expliquée)
* Paul Verlaine (1844, Metz -1896, Paris): D’abord, ‘poète fonctionnaire’ et salon, il connait le désarroi moral (sự rối loạn tinh thần) sous la triple influence d’un amour malheureux, de l’alcoolisme et de Baudelaire. L’ami intime de Arthur Rimbaud, poète.
Oeuvres: Poèmes saturniens (1866) – Fêtes galantes (1869) – La Bonne Chanson (1870) – Sagesse (1881) – Jadis et naguère (1884) – Parallèlement (1889) – Invectives (1896)
- Paul Verlaine sinh năm 1844 – mất năm 1896. Trước tiên , ông là nhà thơ tài tử và câu lạc bộ. Ông chịu tác động dưới ba dòng ảnh hưởng của tình yêu bất hạnh, rượu và Baudelaire. Bạn đồng điệu của nhà thơ Arthur Rimbaud.
Tác phẩm: Poèmes saturniens (1866) – Fêtes galantes (1869) – La Bonne Chanson (1870) – Sagesse (1881) – Jadis et naguère (1884) – Parallèlement (1889) – Invectives (1896)
2b. Cung đàn lãng quên
Tim tôi nức nở khóc thầm,
Khác chi ngoài phố lạnh lùng mưa rơi.
Buồn sao da diết em ơi,
Không dưng xâm chiếm hồn tôi đêm ngày.
Tiếng mưa thánh thót bên tai,
Giọt rơi trên đất, giọt ngoài mái tranh.
Mưa gieo khúc nhạc tâm tình
Lòng buồn thêm gợi nỗi mình mưa ơi !
Vì đâu âm ỉ lệ rơi
Phải chăng ngao ngán sự đời bấy nay !
P. V
3a. La mort du loup
Gémir, pleurer, prier est également lâche,
Fais energiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le sort a voulu t’appeler;
Puis après, comme moi, souffre et meurt sans parler.
Alfred de Vigny (la Mort du loup)
T. 52
* Alfred de Vigny : (1797, Loches-1863, Paris): Écrivain francais.
Auteur de recueils lyriques: Poèmes antiques et Modernes (1826), d’un roman historique: Cinq Mars (1926), Chatterton (1835), Stello (1832), Servitude et grandeur militaire (1835), et quelques grands poèmes: la Mort du loup, la maison du berger, la Mort des oliviers.
- Alfred de Vigny: (1797, Loches-1863, Paris): Nhà văn Pháp.
Tác giả những tuyển tập trữ tình: Poèmes antiques et Modernes (1826), một tiểu thuyết lịch sử: Cinq Mars (1926), Chatterton (1835), Stello (1832), Servitude et grandeur militaire (1835), và một số bài thơ hay: la Mort du loup, la maison du berger, la Mort des oliviers.
3b. Cái chết của con chó sói
Kiên cường vững bước đi lên
Kêu than, khóc lóc, van xin đều hèn;
Đường đời số phận nêu tên
Như tôi, nuốt lệ hy sinh âm thầm.
4a. L’absence
Un seul être vous manque
Tout est dépeuplé.
Poème francais
4b. Vắng em
Một người mà thiếu một người,
Vắng em là cả đất trời quạnh hiu.
Thơ Pháp
5a. La terre natale
Pourquoi le prononcer, ce nom de la patrie,
Dans son brillant exil, mon coeur en a frémi;
Il resonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.
Montagne que voilait le brouillard de l’automne,
Vallons que tapissait le givre du matin,
Saules dont l’émondeur effeuillant la couronne,
Vieilles tours que le soir dorait dans le lointain.
Murs noircis par les ans , coteaux, sentier rapide,
Fontaine où les pasteurs accroupis tour-à-tour
Attendaient goute-à-goute une eau rare et limpide,
Et leur urne à la matin, s’entretenaient du jour.
T.53 Chaumière où du foyer étincelait la flamme,
Toit que le pèlerin aimait à voir fumer,
Objets inanimés, avez-vous donc une âme
Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer ?
Alphonse de Lamartine (Littérature francaise expliquée)
* Alphonse de Lamartine: (1790, Mâcon – 1869, Paris): Poète et homme politique francais. Poète romantique le plus connu dont les oeuvres sont: Méditations poétiques (1820) – Harmonies poétiques et religieuses (1830) – Jocelin (1836) – La Chute d’un ange (1838) – Histoire des Girondins (1847) – Membre du Gouvernement provisoire et ministre des Affaires étrangères en Fevrier 1848. Et ses récits auto-biographiques: Confidences 1849 – Graziella 1852 . Et des oeuvres écrites pour payer ses dettes :
Cours familier de littérature (1856-1869) (Acad fr) D’après Larousse 1996.
- Alphonse de Lamartine: sinh năm 1790 tại Mâcon – mất năm 1869 tại Paris. Nhà thơ, nhà chính trị Pháp. Ông là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng với những thi phẩm :La Chute d’un ange (1838) – Histoire des Girondins (1847) – Thành viên của Chính phủ lâm thời và Bộ trưởng bộ Ngoại giao (2/1848). Và những tập tư truyện: Confidences 1849 – Graziella 1852 . Và những tác phẩm viết để trả nợ :
Cours familier de littérature (1856-1869) - Trong Hàn lâm viện Pháp -Theo Larousse 1996
5b. Đất mẹ
Đừng nhắc lại làm chi tên đất mẹ,
Trong lưu đày, tê tái cả con tim
Như từ xa vang mãi khúc ân tình
Thèm tiếng bước, giọng thân quen bè bạn.
Rừng núi thẳm sương thu giăng lãng đãng,
Tuyết trắng đầy, thung lũng buổi tinh mơ
Liễu dương xanh xén khéo lá vành thơ
Hoàng hôn nhuộm cổ thành xa thăm thẳm.
Tường mốc bụi thời gian, đồi ngõ quạnh
Bên suối lành, đàn mục tử lom khom
Đếm thời gian đợi hứng giọt nước trong
Từng bụm nhỏ trên bàn tay cháy nắng.
Sợ lạnh, lửa túp lều tranh rực sáng
Khói nhà ai lữ khách vội thèm trông
Hỡi vô tri vạn vật có tâm hồn !
Ai đã buộc tim ta bằng luyến ái.
A. de Lamartine
T.54
6a. Chanson d’automne
Les sanglots longs
Des violons
De l’utomne
Blessent mon coeur
D’une langueur
Monotone.
Tout suffocant
Et, blême, quand
Sonne l’heure;
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure.
Et je m’en vais
Au vent mauvais
Qui m’emporte
Decà, delà
Feuille morte.
Paul Verlaine
(Littérature expliquée)
6b. Thu ca
Tiếng thu như tiếng vĩ cầm,
Cung buồn da diết âm thầm lòng ta.
Tuổi cao mái tóc phôi pha
Lệ tràn nhớ lại ngày xa không còn.
Phũ phàng với trận cuồng phong,
Đảo điên trôi giạt, chiếc thân lá vàng.
P. V
7a. La douleur
Je languis nuit et jour
Et mon mal est extrême.
Poème francais
T.55 7b. Đau thương
Vết thương tâm vô hạn
Ta sầu héo đêm ngày.
Vi-Ta
* Vi Ta, tên thật là Lê Ngọc Vị sinh tại Sài Gòn. Ông sống trong khoảng thời gian từ đầu đến đầu nửa sau thế kỷ hai mươi. Nhà văn là tác giả tập truyện nổi tiếng ‘Mây ngàn’ kể lại hoàn cảnh khó khăn, đói kém của du học sinh Việt Nam tại Pháp. Vi-Ta, có lối văn miêu tả cảnh, nhân vật và tả tâm lý rất sâu sắc. Ông cũng có những bản dịch thơ khá ấn tượng từ các thi phẩm tiếng Pháp như bài ‘Le Lac’ (Cái Hồ) của thi sĩ Pháp Alphonse de Lamartine.
8a. Sonnet
Mon âme a son secret, ma vie a son mystère,
Mon amour éternel en un moment concu;
Le mal est sans espoir, aussi j’ai du le taire,
Mais celle qui l’a fait n’en a jamais rien su.
Hélas ! j’aurai passé près d’elle inapercu,
Toujours à ses côté et pourtant solitaire,
Et j’aurai jusqu’au bout fait mon temps sur la terre
N’osant rien demander et n’ayant rien recu.
Pour elle quoique Dieu l’ait faite douce et tendre
Elle ira son chemin, distraite sans entendre
Le murmure d’amour élevé sur ses pas.
A l’austère devoir pieusement fidèle,
Elle dira, lisant ces vers tout remplis d’elle:
“Qu’elle est donc cette femme ? et ne comprendra pas…”
Félix Arvers (Văn nghệ Miền Tây-Số Xuân 1968) *
* Alexis Félix Arvers (1806, Paris – 1850, id): Poète francais. Sa réputation tient à un sonnet commencant par ce vers : Mon âme a son secret, ma vie a son mystère.
- Félix Arvers sinh năm 1860 tại Paris và mất năm 1850 cũng tại Paris. Ông là nhà thơ Pháp. nổi tiếng với bài sonnet bắt đầu bằng câu thơ: Tâm hồn tôi có điều bí ẩn, cuộc đời tôi có chuyện diệu kỳ
* Văn nghệ Miền Tây là tạp chí Văn nghệ do Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) chủ biên. VNMT ấn hành xuất bản tại Cần Thơ được 5 số (1,2,3,4,5) từ 1967-1970 thì đình bản do hoàn cảnh xã hội. Tạp chí này có nội dung lành mạnh, xây dựng và lập trường kháng chiến chống thực dân, đế quốc rõ ràng nên được GS. Tiếng Pháp Nguyễn Bá Thảo nguyên là Phó Chủ tịch MTDTGP khu Tây Nam bộ đem vào vùng kháng chiến giữa năm 1968. Sau 1975, Ngũ Lang (NT) là Tổng Thơ ký Hội Văn nghệ Giải phóng TP.Cần Thơ (Chủ tịch Hội VNGP khi ấy là nhà thơ Hoài Nam Tử Nguyễn Duy Thành).
T56
8b. Tình tuyệt vọng
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu.
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu,
Mà người gieo thảm như hầu không hay.
Hỡi ôi ! người đó ta đây
Để ta thui thủi đêm ngày chiếc thân.
Sao ta đi trọn đường trần,
Chuyện riêng chẳng dễ một lần hé môi.
Người dù ngọc nói hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người chưa quen.
Đường đời ta trót giẫm lên,
Ngờ đâu chân đạp lên trên mối tình.
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong.
Lạnh lùng lòng sẻ hỏi lòng
Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây.
Khái Hưng dịch thơ
9a. Mon amour
Etoile de mes yeux,
Soleil de ma nature;
Vous – Mon ange et ma passion.
Baudelaire
9b. Tình tôi
Em là sao sáng mắt anh,
Mặt trời chói lọi xây thành không gian.
Nỗi đam mê cháy tâm hồn,
Thiên thần ngự trị trong anh trọn đời.
B
10a. L’ennemi
Ma jeunesse ne fut qu’un ténébreux orage
Traversé cà et là par de brillants soleils
T.57
Le tonnerre et la pluie ont fait un tel ravage
Qu’il reste en mon jardin bien peu de fruits vermeils.
Voilà que j’ai touché l’automne des idées
Et qu’il faut employer la pelle et les râteaux
Pour rassembler à neuf tes terres inondées
Où l’eau creuse des trous grands comme des tombeaux.
Et qui sait si les nouvelles fleurs que je rêve
Trouveront dans ce sol lavé comme un grève
Le mustique aliment qui ferait leur vigueur ?
- Ô douleur ! Ô douleur ! Le temps mange la vie,
Et l’obscur ennemi qui nous ronge le coeur
Du sang que nous perdons , croit et se firtifie./.
Charles Baudelaire (Pháp thi tuyển dịch
Phạm Bạch Lĩnh)
10b. Kẻ thù
Tuổi xuân tôi là trận bão to,
Đó đây le lói, ánh dương mờ
Gió mưa sấm sét tan hoang hết
Vườn chẳng còn bao trái đỏ phô.
Sắc thu chớm nhuộm ý thơ rồi
Từng vũng mưa cơi giống mộ người;
Để được san bằng như thuở trước
Phải nhờ cào xẻng lấp đầy vơi.
Màu mỡ mưa trôi hết cả rồi
Còn trơ nền sỏi đá thô thôi;
Lấy đâu nuôi dưỡng màu hoa mới
Như vẫn hằng mơ suốt cuộc đời.
Đau khổ ! Thời gian gặm cuộc đời
Như bao kẻ địch khoét lòng tươi
Cho bao máu đỏ thêm khô cạn
Kẻ ác ngày thêm lộng khắp trời.
C. B
T. 58
* Charles Baudelaire : sinh năm 1821, Paris – mất 1867, Paris. Nhà văn Pháp, kế thừa phong cách lãng mạn và trung thành với thi pháp truyền thống. Tư tưởng trong tác phẩm của ông thể hiện tính bi kịch về số phận con người và thông điệp kỳ bí về vũ trụ.
Tác phẩm: Thơ: les Fleurs du mal, 1857 – Petits Poèmes en prose, 1869.
Phê bình : Curiosité esthétique, l’Art romantique 1868.
11a. Le sens du chant
Les plus désespérés sont les chants les plus beaux.
A. de Musset (Le Pélican)
11b. Ý nghĩa của tiếng hát
Đau thương – Tiếng hát tuyệt vời !
* Alfred de Musset : (1810, Paris - 1857, Paris), nhà văn Pháp. Bắt đầu vào câu lạc bộ văn học của Nodier (nơi nhà thơ Félix Arvers, có dịp tương ngộ với người đẹp Marie Nodier để nên sáng tác được bài sonnet để đời), ông bắt đầu viết cuốn: Contes d’Espagne et d’Italie. Viết phê bình về sân khấu rồi đến cuộc tình sóng gió với nữ văn hào Pháp George Sand.
Tác phẩm: Caprices de Marianne (1833) – Fantasio, On ne badine pas avec l’amour, Lorenzaccio (1834) – le Chandelier (1835) – Il ne faut jurer de rien (1836) – Thơ: les Nuits (1835-1837). Một tiểu thuyết tự truyện : la Confession d’un enfant du siècle (1936). Từ năm 1838, bị bệnh vì làm việc quá sức, ông vẫn viết truyện ngắn: Mimi Pinson và phương ngôn: Il faut qu’une porte ouverte ou fermée (1845). A. de Musset là nhà thơ diễn tả nỗi đau khổ và tình cảm dữ dội của con người - HLV Pháp.
Anh của Musset là Paul (1804, Paris-!880 id) là tiểu thuyết gia và nhà văn viết tiểu luận.
12a. Signification de partir
Partir, c’est mourir un peu dans son coeur.
Poème francais
12b. Ý nghĩa của sự ra đi
Đi là chết ở trong lòng một ít
Thơ Pháp
T. 59
13a. Le lac
Ainsi toujours pousses vers de nouveaux rivages
Dans la nuits éternelle, emportés sans retour,
Ne pourrons-nous jamais sur l’ocean des âges,
Jeter l’ancre un seul jour ?
Ô lac ! l’année à peine a fini sa carrière,
Et près des flots chéris qu’elle devait revoir,
Regarde: je viens seul m’asseoirsur cette pièrre
Où tu la vie s’asseoir …
Ô temps ! suspends ton vol et vous heures propices !
Suspendez votr cours;
Laissez- nous savourer les rapides délices
Des plus beaux de nos jours…..
Que le vent qui gémit, le roseau qui soupire
Que les parfums légers de ton air embaumé
Que tout ce que l’on entend, l’on voit ou l’on respire
Tout dise : “Ils ont aimé”.
Lamartine (Le lac)
13b. Cái hồ
Cứ đẩy mãi xuôi vào bến mới
Trong đêm trường lui tới chẳng về
Thời gian bể cả rộng ghê
Nhân sinh chiếc bách bến mê không ngừng…
Này hồ hỡi ! Năm dài vừa mãn,
Bên sóng yêu, nàng hẵn đến nhìn
Xem ta trên đa một mình
Mà ngươi đã thấy bạn tình năm xưa…
Hỡi thời gian ! đang bay dừng cánh
Những giờ êm ả hãy ngừng trôi
Để ta hưởng trọn thú vui
Những ngày tháng đẹp nhất đời tuổi hoa.
T. 60
Gió rên siết, sậy lau than thở
Dáng kiều thơm nhè nhẹ một lời
Ánh nhìn, tiếng động, làn hơi
Một lời xác nhận: “Hai người đã yêu ”.
Lamartine
14a. Force de la vie
Plutôt souffrir que mourir,
C’est la devise des hommes.
La Fontaine (La Mort et le Bucheron)
14b. Sức mạnh của sự sống
Sống khổ còn hơn chết
Câu ngạn ngữ người đời
L. F
15a. Le Loup et l’Agneau
La raison du plus fortest toujours la meilleure,
Nous l’allons montrer tout à l’heure.
Un Agneau se desalterait
Dans le courant d’une onde pure.
Un loup survient à jeun, qui cherchait aventure,
Et que la faim en ces lieux attirait.
“Qui te rend si hardi de troubler mon breuvage ?
Dit cet animal plein de rage:
Tu seras châtié de ta témérité.
- Sire, répond l’Agneau, que votre Majesté
Ne se mette pas en colère;
Que je me vas désaltérant
Dans le courant,
Plus de vingt pas au-dessous d’Elle;
Et que par conséquent, en aucune facon.
Je ne puis troubler sa boisson.
- Tu la troubles, reprit cette bête cruelle;
T. 61
Et je sais que de moi tu médis l’an passé.
Comment l’aurais-je fait si je n’étais pas né ?
Reprit l’Agneau; je tette encor ma mère.
- Si ce n’est toi, c’est donc ton frère.
- Je n’en ai point. – C’est donc quelqu’un des tiens;
Car vous ne m’épargnez guère,
Vous, vos bergers, et voc chiens,
On me l’a dit: il faut que je me venge”.
Là-dessus, au fond des forêts
Le Loup l’emporte, et puis le mange,
Sans autre forme de procès.
La Fontaine (Fables)
15b. Chó Sói và con Chiên
Lý kẻ mạnh bao giờ cũng đúng
Giờ chúng tôi sẽ chứng minh ngay.
Dòng suối trong, Chiên đang giải khát,
Bụng trống không, Sói chợt tới nơi,
Đói đi lảng vảng kiếm mồi,
Thấy Chiên, Sói vội bời bời thét vang:
“Sao mày dám to gan cắm mõm
Làm đục ngầu nước uống của ta ?
Tội mày đáng trị, chẳng tha !”
Chiên con sửng sốt, thưa qua mấy lời:
“Xin bệ hạ hãy nguôi cơn giận,
Xét lại cho tường tận, kẻo mà…
Nơi tôi uống nước quả là
Hơn hai chục bước cách xa dưới này,
Chẳng lẽ kẻ hèn này có thể
Khuấy nước ngài uống phía nguồn trên.
Con ác quái lại gầm lên:
Chính mày khuấy nước ai quên đâu là
Mày có nói xấu ta năm ngoái…
- Nói xấu ngài ? Tôi nói xấu ai
Khi tôi còn chửa ra đời ?
Hiện tôi đang bú mẹ tôi rành rành.
- Ko6ng phải mày tì anh mày đó !
- Quả thật tôi chẳng có anh em
T.62
- Thế thì cũng mống nhà chiên
Quân bay có đứa nào kiêng sói nào !
Chiên, chó, người cùng nhau một thói
Họ mách ta, ta phải báo thù”
Dứt lời tha tận rừng sâu
Sói nhai chiên dại chẳng cầu luật công.
Theo Tú Mỡ
* Jean de La Fontaine ( 1621, Château Thierry – 1695, Paris) : Nhà thơ Pháp
Tác phẩm: Contes bằng thơ (1665-1682) – Fables, ngụ ngôn (1668-1694) – HLV Pháp
16a. Fumée
Là-bas, sous les arbres s’abrite
La chaumière au dos bossu
Le toit penche, le mur s’effrite
Le seuil de la porte est moussu.
La fenêtre, un volet la bouche,
Mais du taudis, comme au temps froid,
La tiède haleiné d’une bouche
La respiration se voit.
Un tire-bouchon de fumée
Tournant son mince filet bleu
De l’âme en ce bouge enfermée
Porte les nouvelles à Dieu.
Théophile Gautier (Pháp thi tuyển dịch
Phạm Bạch Lĩnh)
* Théophile Gautier (1811, Tarbes - 1872, Neuilly): Nhà văn Pháp thuộc khuynh hướng lãng mạn, thể hiện tính đại chúng trong tiểu thuyết lịch sử: Le Capitaine Fracasse;lý thuyết gia của quan điểm ‘Nghệ thuật vị nghệ thuật’ (l’Art pour l’art): Émaux et Camées; bậc thầy của trường phái Thi sơn (l’École parnassienne).
Belle pensée: 1. Petit à petit, l’oiseau fait son nid
Nước chảy đá mòn.
2. Pièrre qui roule n’amasse pas mousses
Đá lăn mãi không bám rêu.
T. 63
16b. Khói quê
Dưới bóng cây ẩn mình,
Co ro túp lều tranh;
Mái đổ, tường long lở
Thềm cửa phủ rêu xanh.
Ván che khung cửa sổ,
Nhà trống, gió lạnh qua;
Hơi ấm luồn khe cửa
Như hơi người xót xa.
Rèm khói lam cuộn bay
Hình khóa mở nút chai,
Mang hồn căn gác lạnh
Trời cao thấu nỗi này.
T. G
17a. La colline
Cette colline est belle, inclinée et pensive,
Sa ligne sur le ciel est pure à l’horizon.
Elle est un de ces lieux où la vie indécise
Voudrait planter sa vigne et bâtir sa maison.
Nul pourtant n’a choisi sa pente solitaire
Pour y vivre ses jours un à un, au penchant
De ce souple coteau doucement tutéaire
Vers qui monte la plaine et se hausse le champ.
Acun toit n’y fait luire, au soleil qui l’irise
Ou l’empourpre dans l’air du soir ou du matin
Sa tuile rougeoyante ou son ardoise grise,
Et personne jamais n’y fixa son destin.
De tous ceux qui passant un jour devant la grâce
De ce site charmant et qu’ils auraient aimé
En ont senti renaitre en leur memoire lasse
La forme pacifique et le songe embaumé.
T. 64 C’est ainsi que chacun rapporte de son voyage
Au fond de son coeur triste et de ses yeux en pleur
Quelque vaine, éternelle et fugitive image
De silence, de paix et de bonheur.
Mais sur la pente verte et doucement déclive
Qui donc plante sa vigne et bâtit sa maison.
Hélas ! la colline belle, inclinée et pensive,
Avec le souvenir demeure à l’horizon.
Henri de Régnier (Littérature expliquée)
* Henri de Régnier (1864, Honfleur - 1936, Paris): Nhà văn, thi sĩ Pháp. Ông vận động cho mỹ học tượng trưng vào nghệ thuật cổ điển.
Tác phẩm: Les Médailles d’argile – HLV Pháp.
17b. Đồi mơ
Đồi diễm lệ nghiêng nghiêng như trầm mặc
Nét hữu tình xanh biếc vạch chân mây
Xót cuộc đời nay đổi với mai thay
Nên chốn cũ lắm nho trồng, nhà dựng.
Mà người vắng, cảnh quan thêm hiu quạnh
Không ai dừng để ngắm tháng ngày trôi
Qua ngọn đồi êm ả trước bao người
Bên những cánh đồng xanh xa vô tận.
Chẳng bóng một người đến đây gởi phận
Ngói đỏ, đá đen chưa xây một nhà;
Cũng vầng dương sáng mọc với chiều tà
Nhuộm hồng tía nhà nhà như tranh vẽ.
Cảnh đẹp xinh luyến bao nhiêu hành giả
Bước sông hồ mỏi bước ngắm đồi thơ
Với hương ngàn ngan ngát cả mộng mơ
Có nghĩ đến cảnh thần tiên tự tại ?
Đường trần thế, ai nắng mưa dầu dãi
Đã bao lần nhớ lại chuyện ngày xưa
Trong đáy hồn đau đáu lệ buồn sa
Khi mơ đến cảnh bình yên hạnh phúc.
Đồi thoai thoải một màu xanh xa mút
Nho nhà ai trồng những luống non tươi
T. 65
Ôi ! bao nhiêu đồi đẹp tựa bài thơ
Chỉ là bóng chân trời trong kỷ niệm.
H. de Régnier
18a. Le Pélican
… Poètes, c’est ainsi que font les grands poètes
Ils laissent s’égayer ceux qui vivent un temps;
Mais les festins humains qu’ils servent à leurs fêtes
Ressemblent la plupart à ceux des pélicans.
Quand ils parlent ainsi d’espérances trompées
De tristesse et d’oubli, d’amour et de malheur,
Ce n’est pas au concert à dilater le coeur.
Leurs déclamations sont comme des épées;
Elles tracent dans l’air un cercle éblouissant,
Mais il y perd toujours quelque goutte de sang.
Alfred de Musset (Le Pélican)
18b. Con chim bồ nông
……Thi nhân hỡi ! Kiếp thi nhân
Thời gian vui hưởng đã dành cho ai.
Thi nhân đãi tiệc cho người
Bồ nông rút ruột cứu đời các con.
Vần gieo khúc nhạc tâm hồn:
Phụ phàng, bội ước, lãng quên, oán hờn.
Đau thương, khổ ải, sầu buồn,
Phải đâu khúc nhạc ru hồn thế nhân.
Tiếng ngâm như tiếng gươm trần,
Vạch trời thép sáng vẽ đường cánh cung
Lưỡi gươm nhỏ máu ròng ròng
A. D. Musset
T. 66
19a. Le semeur
C’est le moment crépusculaire,
J’admire, assis sous un portail
Ce reste de jour dont s’éclaire
La dernière heure du travail.
Dans les terres de nuit baignées
Je contemple, ému, les haillons.
D’un vieillard qui jette à poignées
La moisson future aux sillons
Sa haute silhouette noire
Domine les profonds labours.
On sert à quel point il doit croire
À la fuite utile des jours.
Il marche dans la plaine immense
Va, vient, lance la graine au loin.
Rouvre sa main et recommence
Et je médite, obscur témoin.
Pendant que déployant ses voiles
L’ombre où se mêle une rumeur
Semble élargir jusqu’aux étoiles
Le geste auguste du semeur.
Victor Hugo (Littérature expliquée)
* Victor Hugo (1802, Besancon - 1885, Paris): Nhà văn Pháp, con một đại tướng. Trước tiên, ông là một nhà thơ cổ điển, có tinh thần quân chủ (Odes, 1822). Sau khi xuất bản lời đề tựa của Cromwell, 1827 và Orientales, 1829, Herman, 1830, ông đã thể hiện xuất sắc là văn nghệ sĩ của chủ nghĩa lãng mạn.
Tác phẩm của Victor Hugo phong phú và đa dạng:
- Về thi ca: Les Feuilles d’automne, 1831 – Les Chants du crépuscule (1835) – Les Voix intérieures, 1937 – Les Rayons et les Ombres, 1840 .
- Về sân khấu: Marion de Lorme, 1831 – Le roi s’amuse, 1832 – Marie Tudor, 1833 – Ruy Blas,1838.
- Về tiểu thuyết lịch sử: Notre Dame de Paris, 1831.
Và thơ trào phúng: Châtiments, 1853. Tuyển tập trữ tình: Contemplations, 1856; anh hùng ca: La légende des siècles, 1859-1883; và các tiểu thuyết: Les Misérables, 1862 – Les
travailleurs de la mer, 1866 – L’homme qui rit, 1869. Sau khi nhà văn mất, tro của ông được lưu giữ tại điện Panthéon. HLV Pháp
T. 67
19b. Người gieo hạt
Trong ánh chiều bãng lãng,
Giờ khắc của ngày tàn,
Thấy thương người vô hạn
Cao tuổi còn gắng công.
Bóng đêm ngập ruộng dồng
Nhìn xót xa thân ông
Thân áo quần xơ xác
Đợi mùa sau, gieo trồng.
Ngự luống cày, bóng cao
Tin thời gian còn lại
Mài miệt để mùa sau.
Giữa cánh đồng bát ngát
Người lui tới gieo mầm
Vung tay những hạt vàng
Bâng khuâng, tôi nghĩ ngợi.
Trong lúc màn đêm phủ,
Bốn bên gió xạc xào
Bàn tay người gieo hạt
Với tận mấy tầng sao.
V. H
20a. Definition de l’Amour.
L’Amour, c’est ce qui se passe entre
deux personnes qui s’aiment.
Roger Vaillant
(“Bonjour Tristesse” – Francoise Sagan)
20b. Định nghĩa Ái tình
Ái tình là cái muôn đời,
Xảy ra giữa lúc hai người yêu nhau.
R. V
(trong “Buồn ơi ! Xin chào” của Francoise Sagan)
T. 68
21a. Rondeau
Sur le printemps
Le temps a laissé son manteau
De vent, de froidure et de pluie
Et s’est vêtu de broderie
De soleil luisant, clair et beau.
Il n’y a bête ni oiseau
Qu’en son jargon ne chante ou crie
Le temps a laissé son manteau
De vent, de froidure et de pluie
Rivière, fontaine et ruisseau
Portent en livrée jolie
Gouttes d’argent d’orfèvrerie
Chacun s’habille de nouveau.
Le temps a laissé son manteau
De vent, de froidure et de pluie
Charles d’Orléans
(Littérature expliquée)
* Charles d’Orléans (1391, Paris - 1465, Amboise): Nhà thơ Pháp. Vốn là thái tử con của Louis d’Orléans và Valentine de Milan nhưng ông từng bị bắt giam tại nhà ngục Azincourt và tại Anh trong một phần tư thế kỷ. Ra tù, ông trở về Pháp ở tại lâu đài Blois, nơi đó nhà thơ đã mở một câu lạc bộ văn học. Thơ của ông chỉ được xuất bản vào năm 1734 nhưng nhà thơ đích thực là một thi sĩ có tài. Thơ của Charles d’Orleans mang giọng điệu ca ngợi và tiếc nhớ nước Pháp, thể hiện tình yêu thương bằng một hình thức duyên dáng và man mác buồn. Ông ca ngợi mùa xuân với nét bút miêu tả tươi tắn xinh đẹp. Nghệ thuật của nhà thơ khá dung dị, nhưng mượt mà và giàu tính trí tuệ.
21b. Tình khúc mùa xuân
Giã từ mưa gió lạnh,
Thời gian mặc áo thêu;
Dệt vàng tia nắng ấm
Rực rỡ ánh dương sao !
Thú cầm cùng lên tiếng
Ríu rít và la kêu
T.69
Giã từ mưa gió lạnh,
“Giã thời gian mặc áo thêu”.
Suối thác cùng sông hào
Trang sức đẹp làm sao
Long lanh ngời giọt bạc
Đều bộ mới bảnh bao
Giã từ mưa gió lạnh,
Thời gian mặc áo thêu.
C. d’Oléans
22a. Poème flou
Où va la pluie, le vent la mène
En tintant sur le toit,
Je me serrais contre toi,
Pour me cacher ta peine.
Le jardin noir aux arbres nus
Ta petite lampe en veilleuse
Tes soupirs heureux d’amoureuse
Que sont-ils devenus ?
J’écoute encor tomber la nuit
Elle n’a plus le même bruit…
Francis Carco (Littérature expliquée)
* Francis Carco (1886, Nouméa – 1958, Paris): Nhà văn Pháp. Thơ ông gợi lên hình ảnh một nghệ sĩ lang bạt.
22b. Mơ hồ thơ ý
Lạnh lùng trời mưa gió
Tí tách trên mái nhà;
Bên em anh siết chặc
Giấu nỗi niềm vì hoa.
Vườn cây xơ xác lá
Leo lét ngọn đèn xanh;
Thều thào qua hơi thở:
Giờ thì sao, hỡi mình !
T. 70
Nay trong tiếng mưa rơi
Tôi thấy khác xưa rồi.
F. C
23a. Les larmes
J’aurai cinquante ans tout à l’heure,
Je me résigne, Dieu merci !
Mais j’ai ce très grave souci:
Plus je vieillis, moins je pleure.
Je souffre pourtant aujourd’hui:
Comme jadis et je m’honore
De sentir vivement encore
Toutes les misères d’autrui.
Oh ! la bonne source attendrie
Qui me montait du coeur aux yeux !
Suis-je à ce point devenu vieux
Qu’elle soit près d’être tarie ?
Pour mes amis dans les douleurs
Pour moi-même, quoi ? pas une larme
Qui tempère, console et charme
Un instant ma peine et ma leur ?
Hier encore, par ce froid si rude
Devant ce pauvre presque nu
J’ai donné mais sans être ému
J’ai donné mais par habitude.
Et ce triste veuf, l’autre soir,
- Sans que de mes yeux soit sortie
Une larme de sympathie –
M’a confié son désespoir.
Est-ce donc vrai ? le coeur se lasse
Comme le crps va se courbant
Et moi seul, toujours m’absorbant,
J’irai, vieillard à tête basse ?
Non, c’est mourir plus qu’à moitié
Je pretends , cruelle nature
Resistant à ta loi dure
Garder intacte ma pitié.
T.71 Oh ! les cheveux blans et les rides
Je les accepte, j’y consens,
Mais au moins jusqu’en mes vieux ans
Que mes yeux ne soient pas arides !
Car l’homme n’est laid, ni pervers
Qu’au regard sec de l’égoisme,
Et l’eau d’une larme est un prisme
Qui transfigure l’univers.
Francois Coppée (Littérature expliquée)
* Francois coppée (1842, Paris - 1908 - id ): Nhà thơ Pháp, họa sĩ.
23b. Nước mắt
Ngũ tuần sắp đến rồi
Cam phận đội ơn trời
Với ta, cái điều lạ
Càng già, lệ ít rơi.
Mà nay đã khổ đâu
Như xưa vẫn tự hào
Thấy ai buồn ai tủi
Lòng luống những nghẹn ngào.
Ôi ! Đẹp nguồn tình thương
Tim động, mắt rưng rưng !
Phải chăng nguồn sắp cạn
Vì đã quá già chăng.
Thương bạn, lệ không rơi
Buồn thân, lệ cạn rồi.
Nào lấy ai khuyên giải
Cho họ và cho tôi.
Hôm qua trời đông lạnh
Một người thiếu áo choàng
Lệ thường, tôi ban phát
Mà không chút động lòng.
Một người vừa chôn vợ
Ngao ngán tỏ nỗi lòng;
Mắt tôi sao ráo hoảnh
Không giọt lệ cảm thông.
T. 72
Lòng tôi mỏi mệt sao
Tấm thân gù thiểu não;
Một mình mãi cậm cụi
Tuổi già chẳng ngẫng cao.
Phải chăng chết nửa rồi
Con tạo ác quá thôi;
Luật trời ta chống đối,
Giữ vẹn lòng thương người.
Ôi ! Tóc bạc da nhăn
Đành chịu không thở than
Nhưng cho ta chọn kiếp
Nguồn lệ chẳng khô khan !
Thấy những kẻ gian tà
Tâm địa thiếu vị tha
Giọt lệ như lăng kính
Soi vũ trụ tìm ra.
F.C
24a. Les cloches du pays
Combien je vous aime, ô voix argentines,
Cloches du pays, soeurs de mes vingt ans !
Ave Maria, Landes et Matines,
Combien mon coeur bat quand je vous entends.
Aux jours bienheureux de ma prime enfance,
Quand j’étais encore jeune et pieux;
Mon sommeil était sous votre défense
Et vous me faites des rêves joyeux.
Rien n’était si beau que vos envolées,
Dans le grand ciel de l’après-midi,
Je suivais des yeux vos notes ailées
Qui tourbillonnaient dans l’air attièdi.
Puis rasant l’église et ses vieilles tombes
Planant sur le bourg à peine un moment
Comme un fol essaim de blanches colombes
S’en allaient se perdre au bleu firmament.
T. 73
Et sous notre toit de mousse et de lierre
Lorsque les voisins étaient endormis
Notre causerie était familière
Ainsi qu’il convient à des vieux amis.
O Musique chère, heure sans pareille
Que tous nos propos etaient ingenus
Nous nous comprenions alors à merveille
Vos moindres secrets, je les ai connus…
L’horizon d’antan se trouble et recule
Et l’ombre envahit le coeur délaissé
Cloches de l’aurore et du crépuscule
Rendez-moi, de grâce, un peu du passé.
Cloches qui riez quand l’aube s’allume,
Cloches qui pleurez quand le jour s’enfuit.
Angélus du soir perdus dans la brume,
Glas des trépassés qu’emporte la nuit.
Carrillons lancés à travers l’espace
Qui fait un bruit d’oiseaux envolés
Belles qui chantez pour le vent qui passe
Comme l’alouette au milieu des blés.
Cloches qui courez au ras des prairies
Loches qui frolez la cime des bois
Sur l’aile d’argent de vos sonneries
Emportez mon âme au ciel d’autrefois…!
Gabriel Vicaire (Littérature expliquée)
* Gabriel Vicaire (1848, Ambérieu 1900,- id ) : Nhà thơ Pháp, tác giả của Émaux bressans
24b. Tiếng chuông cố hương
Chuông làng, bạn tuổi hai mươi
Tiếng vàng chuông đổ từng hồi chơi vơi;
Ta yêu chuông lắm chuông ơi !
Nghe chuông thổn thức bồi hồi như mơ.
Những ngày hoa mộng tuổi thơ
Hồn trinh thanh khiết kính thờ bề trên.
T. 74
Chuông dìu giấc điệp triền miên,
Ươm bao mộng đẹp lên trên gối nằm.
Đẹp sao tiếng bổng tiếng trầm
Hương chiều ấm áp dưới vòm trời xanh
Tiếng chuông lồng lộng thanh thanh
Như muôn cánh nhạc xây thành không gian.
Liệng mái đền, lướt mồ xanh
Vang vang vọng khắp ngoại thành bay qua;
Như đàn câu trắng bay ra
Cánh cuồng chìm khuất tít xa chân trời.
Nhà tranh thư thả nghỉ ngơi
Láng giềng đây đó an vui mộng lành.
Bà con thân ái tâm tình,
Tuổi cao đáng được để dành nơi đây.
Lúc nào bằng buổi hôm nay
Tiếng chuông ngào ngọt vơi đầy niềm riêng.
Tâm tình san sẻ thần tiên
Chuyện tư thầm kín giữ bên dạ này.
Ngày nao đẹp mộng chân mây,
Mà nay vẩn đục ngập đầy tim côi.
Tiếng chuông chiều sớm chơi vơi
Xin vui lòng trả mộng đời năm xưa.
Tiếng chuông buổi sáng tinh mơ
Giọng như than vãn báo giờ tà dương.
Chuông chiều lịm tiếng trong sương,
Ru hồn tử sĩ đêm trường ngân vang.
Tiếng chuông xé toạc không gian,
Như chim xao xác từng đàn bay qua.
Giai nhân tuyệt sắc hòa ca,
Gió ru quyện tiếng sơn ca giữa đồng.
Tiếng vang lướt cỏ khi trầm
Vút cao rừng thẳm mấy tầng ngàn cây.
Cánh vàng lên giọng ngất ngây
Đưa hồn tôi lại trời mây thuở nào.
G. V
25a. Les yeux
Bleus ou noirs,tous aimés, tous beaux
Des yeux sans nombre ont vu l’aurore
T. 75
Ils dorment au fond des tombeaux
Et soleil se lève encore.
Les nuits plus douces que les jours
Ont enchanté des yeux sans nombre
Les étoiles brillent toujours
Et les yeux se sont remplis d’ombre.
Oh ! Qu’ils aient perdu le regard
No, non, cela n’est pas possible
Ils se sont tournés quelque part
Vers ce qu’on nomme l’invisible.
Et comme les astres penchants
Nous quittent, mais au ciel demeurent
Les prunelles ont leurs couchants
Mais il n’est pas vrai qu’elles meurent.
Bleus ou noirs, tous aimés, tous beaux
De l’autre côté des tombeaux,
Les yeux qu’on ferme voient encore.
Sully Prudhomme (Littérature expliquée)
* Sully Prudhomme (thường gọi René Francois Armand Prudhomme: 1839, Paris – 1907, Chatenay Malabry): Nhà thơ Pháp lấy cảm hứng từ nội tâm (Solitude), và chủ đề giáo dục (La justice, les vaines tendresse). Giải Nobel 1901 – HLV Pháp.
25b. Đôi mắt
Xanh huyền đều quí vẻ xinh
Biết bao đôi mắt bình minh đón chào.
Mắt ngủ yên dưới mộ sâu
Thái dương vẫn mọc phương nào ở đây.
Đêm đen êm dịu hơn ngày
Bao nhiêu cặp mắt đắm say dáng kiều.
Long lanh tinh tú diễm kiều
Thế nhân thầm ước, mắt nhiều mộng mơ.
Mắt không nhìn thấy nữa sao,
Không, không, chẳng có lẽ nào thế đâu
Quay về trông những đâu đâu
T. 76
Vô hình, vô sắc, nơi nào mắt trông.
Không gian chìm hết trăng sao
Nhưng trăng sao ở trời cao trường tồn.
Có đôi mắt ủ hoàng hôn
Mà muôn đời mãi bồn chồn lòng ai.
Xanh huyền đều quí vẻ xinh
Chân trời rộng mở, bình minh mắt nhìn;
Mộ kề vuốt mắt ngắm nghiền
Thế mà mắt vẫn soi nhìn ngàn sau.
S. P
26a. Brise marine
La chair est triste, hélas ! Et j’ai lu tous les livres
Fuir ! là-bas ! Je sens que des oiseaux sont ivres
D’être parmi l’écume incinnue et les yeux,
Rien, ni le veux jardin, reflèté par les yeux.
Ne retiendra ce coeur qui dans la mer se trempe,
Ô nuit, ni la clarté déserte de ma lampe
Sur le vide papier que la blancheur défend
Et ni la jeune femme allaitant son enfant.
Je partirai, Steamer, balancant ta mâture,
Lève l’ancre pour une exotique nature.
Un ennui désole par de cruels espoirs
Croit encore à l’adieu suprême des mouchoirs
Et peut-être les mâts invitant les orages,
Sont-ils de ceux qu’un penche sur les naufrages ?
Perdus sans mâts, sans mâts, ni frtiles flots…
Mais, ô mon coeur, entends le chant des matelots.
Stéphane Mallarmé (Littérature expliquée)
* Stéphane Mallarmé (1842, Paris - 1898, Valvins): Nhà thơ Pháp. Giáo sư tiếng Anh, ông xuất bản một số bài thơ trong Le Parnasse contemporain: Phái Thi Sơn cùng thời).
Tác phẩm chính: Hérodiade (1971) – l’Après-midi d’un faune (1876) – Un coup de dés jamais n’abolira le hasard (1897).Tác phẩm của ông đã ghi một dấu ấn về sự tiến triển của nền văn học Pháp trong thế kỷ XX.
T. 77
26b. Gió khơi
Thân này ngán ngẫm phù hoa
Thư trang ẩn dật, lánh xa thị thiền.
Trời xanh, biển rộng, muông chim,
Bằng không vườn cũ: không quên bóng hình.
Nỗi lòng biển ngắm mặn tình
Đèn đêm soi bóng hoa tiên trắng dóng,
Vợ con vẫn ở trong lòng
Mà không cản bước tang bồng thuyền trôi.
Căng buồm giong ruổi thuyền ơi !
Nhổ neo nhắm hướng chân trời bay xa
Buồn theo tuyệt vọng bao la,
Ngâm câu vĩnh biệt lệ nhòa thấm khăn.
Mặc cho giông tố phũ phàng
Thuyền trôi cột ngả muôn phần xác xơ;
Lênh đênh không bến không bờ
Lòng ơi, ta vẫn khoan hò vui ca
S. M
27a. Le berceau
Dans la chambre paisible où tout bas la veilleuse
Palpite comme une âme humble et mystérieuse
Le père, en étouffant ses pas , s’est approché agrandit les ombres
Du petit candide où l’enfant est couché.
Et sur cette faiblesse et ces douceurs de neige
Pose un regard profond qui couve et qui protège.
Un souffle imperceptible aux lèvres, l’enfant doit,
Penchant la te6te ainsi qu’un petit oiseau mort.
Et les doigt repliés aux creux de ses mains closes,
Laisse à travers le lit trainer ses bras de rose
D’un fin poudroiement d’or, se cheveux l’ont nimbé
Un peu de moiteur perle à son beau front bombé.
T. 78
Ses pieds ont repoussé les draps, la couverture,
Et libre maintenant, nu jusqu’à la ceinture,
Il laisse voir ainsi qu’un lys éb louissant
La ure nudité de sa chair d’innocent.
Le père le contemple, emu jusqu’aux entrailles …
La veilleuse agrandit les ombres aux murailles
Et soudain, dans le calme immense de la nuit,
Sous un souffle venu des siècles jusqu’à lui
Il sent plein d’un bonheur que nul verbe ne nomme
Le grand frisson du sang passer dans son coeur d’homme.
Albert Samain (Littérature expliquée)
* Albert Samain (1858, Lilles - 1900, - ): Nhà thơ Pháp, thuộc nhóm tượng trưng.
Tác phẩm: gồm những khúc ca bi thương đầy tinh tế: Au jardin de l’infante, Aux flancs du vase, le Chariot d’or…
27b. Chiếc nôi
Phòng tĩnh lặng, dưới đèn đêm
Thân cha nhẹ bước êm đềm hiện ra,
Giường con trinh trắng mộng hoa
Lo con thức giấc, chân cha nhẹ nhàng
Thấy con mềm yếu dịu dàng
Cha nhìn ấp ủ tình thương độ trì
Ngã đầu thở nhẹ môi hờ
Như đầu chim rũ giấc hồ say sưa.
Tay con tựa nhánh hồng tơ
Bàn tay ôm ngón đu đưa ngoài giường.
Khuôn trăng ngự giữa tóc vàng,
Mồ hôi lóng lành trên vầng trán cao.
Chăn mền chân đạp tung nhầu,
Để thân trần trụi suốt đầu đến lưng.
Da con sắc huệ thẹn thùng,
Khơi màu tinh khiết lâng lâng tâm hồn.
Cha nhìn con, dạ bồn chồn
Đèn khuya in bóng trên tường vôi xinh.
T.79
Trầm tư tĩnh lặng đêm yên,
Muôn xưa truyền thống mạch liền ngàn sau.
Chạnh nguồn hạnh phúc tuôn trào,
Lòng nghe cuộn chảy máu đào trong tim.
A. S
28a. Les pas
Tes pas, enfants de mon silence.
Saintement, lentement placés
Vers le lit de ma vigilance
Procèdent muets et glacés.
Personne pure, ombre divine,
Qu’ils sont doux, tes pas retenus !
Dieux ! Tous les dons que je divine
Viennent à moi sur ces pieds nus.
Si de tes lèvres avancées
Tu prépare pour l’apaiser
A l’habitant de mes pensées.
La nourriture d’un baiser.
Ne hates pas cet acte tendre;
Douceur d’être et de n’être pas,
Car j’ai vécu de vous attendre
Et mon coeur n’était que vos pas.
Paul Valéry (Littérature expliquée)
* Paul Valéry (1871, Sète - 1945, Paris): Nhà văn Pháp. Là môn đồ của Mallarmé, ông bắt đầu cho xuất bản thơ rồi quay lại học Toán và tìm thấy được sở thích ở việc sáng tác nghệ thuật bằng cách thành lập một đơn vị sáng tác để thỏa mãn tinh thần (Introduction à la méthode de Léonard de Vinci, 1895), nhà thơ sáng tạo ra một mỹ học tinh thần (La Soirée avec M Teste, 1896) rồi tìm lại với thi ca (la Jeune Parque, 1917; Charmes, 1922), từ đấy ông hình thành nên le Cimetière marin) mà khởi sự từ 1937, ông sẽ giảng dạy nghệ tuật tại Collège de France. Tuy nhiên, ông cũng theo đuổi hội họa, âm nhạc, khoa học, từ đó cho hình thành những đề tài tiểu luận: Variéte, 1924-1944; l’Âme et la Danse 1923 và một di cảo phong phú: Mon Faust, Cahiers – HLV Pháp.
T. 80
28b. Bước chân
Phập phòng dõi nhẹ bước tiên
Dội trên sàn lạnh nỗi niềm riêng tây;
Lặng chờ gót ngọc đến đây
Bên giường canh cánh từng giây lại gần.
Lòng mơ dáng ngọc thiên thần,
Mà sao có vẻ tha nhân ngại ngùng.
Thăng hoa trăm mối ngổn ngang
Cho ta hạnh phúc từ bàn chân không.
Cánh môi mơn trớn nỗi lòng,
Nụ hôn truyền lửa, ý vàng gởi trao.
Mà xin đừng vội ban ân
Vui đây ai biết cõi trần hay mơ:
Từ lâu hằng sống mong chờ
Lòng thơ ấp ủ niềm mơ gót ngà.
P. V
29a. Lorsque finira le voyage
Lorsque finira le voyage
- Peut-être dans pas bien longtemps-
Quand nous reverrons le village,
Qu’hier encore nous aimons tant
Aura-t-il le même visage
Qui charmait nos regards d’enfant,
Le village que nous aimions tant,
Lorsque finira le voyage ?
Y reverrons-nous la fontaine
Le lézard au soleil brulant ?
Le tilleul près du grand che6ne,
Les soirs d’été ensorcelants ?
Connaitrons-nous les mêmes peines
L’émotion d’un jour troublant
D’un soir d’été ensorcelant ?
Y reverrons-nous la fontaine ?
T. 81
Lorsque l’on part, on meurt un peut
En rentrant, on meurt davantage
Sans le savoir, on devient vieux
Le temps nous tire dans son sillage
Tout ce que nous aimions le mieux,
Devient un nom, un paysage
Le temps nous tire dans son sillage
Lorsque l’on part, on meurt un peu.
Lorsque finira le voyage,
- Peut-être dans pas bien longtemps-
Elle aura pris un autre âge;
La maison que nous aimons tant !
C’est porquoi, si nous étions sage,
Nous l’oublierons dès maintenant
Peut-être ne sera plus temps,
Lorsque finira le voyage…
Princesse de Bouffémont (Pháp thi tuyển dịch-P.B Lĩnh)
29b. Bao giờ dừng bước giang hồ
Khi nào dùng bước giang hồ,
- Chắc ta hăm hở làng xưa trở về -
Ngày nao yêu dấu dồng quê,
Mà nay có đổi khác gì năm xưa.
Quê nhà lưu luyến trẻ thơ,
Ta bâng khuâng hỏi khi về ra sao ?
Thạch sùng tắm nắng bờ ao
Ống vòi, máng nước ngày nào còn không ?
Hè sang ngao ngán nỗi lòng,
Bên nhau sồi, gỗ khoe bông trĩu cành.
Còn không bao nỗi bực mình
Chiều về xao xuyến tâm tình mênh mang.
Ống vòi, máng nước còn không ?
Ra đi lòng đã chết dần
Khi về có chết trăm phần hơn xưa;
Người cười mình tóc bạc phơ
Thời gian xô đẩy thân cô theo giòng;
Niềm thương canh cánh bên lòng
Làng xưa cảnh cũ nay còn nhớ tên;
T.82
Thơi gian như nước triều lên,
Thân này đã chết tự miền ra đi.
Không bao lâu nữa ta về,
Ngôi nhà yêu dấu còn gì vẻ xưa !
Khi nào dừng bước giang hồ.
P. B.
30a. L’Enfant
Lorsque l’enfant parait, le cercle de famille
Applaudit à grand cris; son doux regard qui brille
Fait briller tous les yeux,
Et les plus tristes fronts, les plus souillés peut-être
Se derident soudain à voir l’enfant paraitre
Innocent et joyeux.
Soit que juin ait verdi mon seuil ou que novembre
Fasse autour d’un grand feu vacillant dans la chambre
Les chaises se toucher,
Quand l’enfant vient, la joie arrive et nous éclaire
On rie, on se recrie, on l’appelle et sa mère
Tremble à le voir marcher.
Quelques fois nous parlons, en remuant la flamme
De patrie et de Dieu, des poètes, de l’âme
Qui s’élève en priant;
L’enfant parait, adieu le ciel et la patrie
E bles poètes saints ! la grave causerie
S’arrête en souriant.
La nuit, quand l’homme dort, quand l’esprit rêve à l’heure
Où l’on entend gémir, comme une voix qui pleure,
L’onde etntre les roseaux.
Si l’aube tout à coup là-bas luit comme un phare,
Sa clarté dans dans les champseveileune fanfare
De cloches et d’oiseaux.
Enfant, vous êtes l’aube et mon âme est la plaine
Qui des plus douces fleurs embaume son haleine
Quand vous la respirer
T. 83 Mon âme est la forêt dont les sombres ramures
S’emplissent pour vous seul de suaves murmures
Et de rayons dorés
Car vos beaux yeux sont pleins de douceurs infinies,
Car vos petites mains joyeuses et bénies
N’ont point mal fait encor
Jamais vos jeunes pas nnt touché votre fange
Tête sacrée ! Enfant aux cheveux blonds, bel ange
À l’auréole d’or !...
Il es beau avec son doux sourire
Sa douce bonne foi, sa voix qui veut tout dire,
Ses pleurs vite apaisés,
Laissant errer sa vue étonnée et ravie,
Offrant de toutes parts sa jeune âme à la vie
Et sa bouche aux baisers !
Seigneur, préservez-moi que j’aime
Frères, parents, amis et mes ennemis même
Dans le mal triomphants
DE jamais voir, Seigneur, l’éte sans fleurs vermeilles
La cage sans oiseaux, la ruche sans abeilles,
La maison sans enfants !
Victor Hugo (Littérature expliquée)
30b. Trẻ thơ
Mới vừa xuất hiện trẻ thơ,
Xung quanh ai nấy reo hò vỗ tay;
Long lanh ánh mắt thơ ngây
Mắt người ươn ướt chứa đầy niềm vui.
Trên bao vầng trán rạng ngời
Âu lo gian khổ đến hồi tiêu tan.
Cây xanh hè mát dưới hiên
Cùng khi sưởi ấm phòng bên đông về.
Người người hoan hỉ tụ tề,
Trẻ thơ xuất hiện đề huề ấm vui.
Bi bô tiếng gọi, tiếng cười
Bước chân chập chững con vời mẹ thương.
Lắm khi câu chuyện đang dòn,
Đọc kinh, bàn sử, tâm hồn lâng lâng.
T.84
Con ra câu chuyện phải dừng,
Người người im tiếng nhìn sang bé cười.
Đêm đêm yên giấc thảnh thơi
Ngàn lau sóng vỗ như lời thở than;
Kim ô như ngọn hải đăng
Chuông mai trổi nhạc mơ màng chim ca.
Con như mặt nhựt hiện ra
Mùi thơm hơi thở, nở hoa lòng này.
Mẹ cha xanh mát ngàn cây,
Con là nụ búp gió lay nhạc vàng.
Mắt con, ôi đẹp vô chừng
Bàn tay xinh xắn chưa vương bận gì.
Ngây thơ hồn bé chim ri,
Bụi đời không lấm bước đi thiên thần.
Đầu mang kim miện tóc vàng
Phúc linh sắc mặt trần gian khó tìm.
Mặt tươi nở nụ cười xinh
Tung tăng thánh thiện ỏi inh vạn lời.
Nhạy hờn, hay khóc, dễ cười
Long lanh đồng tử, mắt vui ngập tròng.
Nhìn ai như gởi tâm hồn
Đôi môi tươi thắm chờ hôn mọi người.
Xin trời phù hộ cho tôi,
Mong đời phổ độ cho người tôi thương.
Anh em, bè bạn, thân nhân.
Cả ai thù ghét tâm hồn xấu xa.
Chẳng nhìn cảnh hạ không hoa,
Chim ong vắng tổ, ngôi nhà không con.
V. H
\
(TRANH MINH HỌA)
T. 85
31a. Ma bôhème
Je m’en allais,les poings dans mes poches crevées
Mon paletot aissi devenait idéal.
J’allais sous le ciel, Muse, et j’etais ton feal :
Oh ! là, là, que d’amours splendides j’ai revées !
Mon unique culotte avait un large trou.
Petit Poucet rêveur, j’egrenais dans ma course
Des rimes. Mon auberge était à la Grande-Ourse,
Mes étoiles au ciel avaient un doux frou-frou.
Et je les écoutais, assis au bord des routes,
Ces bons soirs de septembre où je sentais des gouttes
De rosée à mon front, comme un vin de vigueur;
Où rimant au milieu des ombres fantastiques,
Comme des lyres, je tirais des élastiques
De mes soulieres blesses, un pied contre mon coeur !
Arthur Rimbaud (Littérature expliquée)
* Arthur Rimbaud (1854, Charleville -1891, Marseille) : Nhà thơ Pháp, được coi là thần đồng thi ca sớm phát triển một cách khác thường. Mười lăm tuổi, Rimbaud đã in Bateau ivre; nhưng đến 19 tuổi, ông đã cho xuất hiện hết tác phẩm của mình với nội dung phản kháng lại tất cả mâu thuẫn ở con người trong xã hội. Trong thi ca, ông tìm cách diễn đạt cái tuyệt đối của sự vật. Chấm dứt tình bằng hữu với Verlaine sau phát súng lục của bạn làm ông bị thương. Dù thời gian hoạt động trên văn đàn không nhiều, Rimbaud vẫn gây ảnh hưởng lớn đến Verlaine và trường phái tượng nhiên đồng thời cũng nhắc ta nhớ đến hai câu thơ quen thuộc của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu: Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/Hai chàng thi sĩ choáng hơi men. (Tình trai):
Tác phẩm: Bateau ivre ivre (Con thuyền say), les Illuminations (Những tia sáng), Une saison en enfer (Mùa địa ngục) . Từ 20 tuổi trở đi, ông kéo dài cuộc sống phiêu lưu cho đến lúc cuối đời.
31b. Đời lảng tử
Túi rỗng chân mòn, ruổi dặm xa
Áo choàng bạc thếch, chẳng nhìn ra
Ta chung tình lắm, nàng Thơ hỡi !
Tình ái huy hoàng, vẫn ước mơ !
Quần cũ mình mang trũng lỗ sâu
T. 86
Quần cũ mình mang trũng lỗ sâu
Ngỡ mình Hoàng tử Bé phiêu lưu;
Gieo vần bến ý nơi xa tít
Lời ấm tinh cầu giọng xác xao.
Thẫn thờ bên lộ lắng tai nghe,
Ngào ngọt chiều xưa rụng trước hè;
Giọt giọt sương mềm vương trán bụi
Hồn hoang ngây ngất rượu sa-kê.
Hái búp thơ hoa chốn hảo huyền
Như đàn lyres vọng sắc âm thiêng,
Từ đôi giày rách phong trần lắm
Nghe dội trăm miền tận đáy tim.
A. R
32a. Le ciel est, par-dessus le toit
Le ciel est, par-dessus le toit,
Si bleu, si calme !
Un arbre, par-dessus le toit,
Berce sa palme.
La cloche dans le ciel qu’on voit,
Doucement tinte,
Un oiseau, sur l’arbre qu’on voit,
Chante sa plainte.
Mon Dieu, mon Dieu, la vie est là
Simple et tranquille.
Cette paisble rumeur-là
Vient de la ville.
- Qu’as-tu fait, ô toi que voilà
Pleurant sans cesse,
Dis,qu’as-tu fait, toi que voilà,
De ta jeunesse ?
Paul Verlaine (Sagesse, Fasquelle, édit.)
* Paul Verlaine (xem tiểu sử ở phần trước) : Thi sĩ sáng tác bài thơ này trong nhà ngục ở Mons (Bỉ) sau khi bị kết tội đã bắn hai phát súng lục (1873) vào bạn mình là Rimbaud. Sự yên tĩnh đã lắng đọng trong tâm tư nhà thơ, khiến ông trở về với tôn giáo (đạo Catholique) và chuẩn bị in tập thi tuyển Sagesse (Ngộ) vào năm 1881.
T. 87
Trời xanh trên mái nhà
Trời xanh trên mái nhà,
Lặng yên, màu biếc đó !
Cành cây trên mái nhà
Đu đưa vờn lá cọ.
Gác chuông xa vẫn thấy
Vang vọng đổ từng hồi
Cành cây, cánh chim trời
Buông giọng buồn run rẩy.
Bạn làm gì nơi đó
Mà than khóc chẳng dừng,
Bạn đang làm chi đó
Trong lứa tuổi thanh xuân ?
P. V
33a. Aux paysans
Aux voix qui vous diront la ville et ses merveilles,
N’ouvrez pas votre coeur, paysans, mes amis !
À l’appel des cité, n’ouvrez pas vos oreilles,
Elles donnent, hélas ! moins qu’elles n’ont promis…
La cité pour son peuple en vain se dit féconde,
Le pain de ses enfants est plus amer que doux.
Sous un luxe qui ment, tel rit aux yeux du monde,
Qui tout bas porte en vie au dernier d’entre vous.
Paisibles et contents, la tâche terminée,
A votre cher foyer vous rentrez chaque soir.
Combien de citadins, au bout de leur journée,
Ne rapportent chez eux qu’un morne désespoir.
A vos champs, à vos bois, demeurez donc fidèles:
Aimez vos doux vallons, aimez votre metier.
Auguste est le travail de voc mains paternelles;
C’est à votre sueur que vit le monde entier…
Autran
T. 88
* Joseph Autran (1813, Marseille – 1877): Nhà thơ Pháp, tác giả những tập thơ: La Mer (Biển), la Vie rurale (Đời sống nông thôn). Bài thơ trên trích ra từ tập: La Vie rurale xuất bản nhà Calmann-Levy.
33b. Tâm tình với bạn quê
Những ngợi ca về thị thành kỳ diệu
Xin đừng tin hỡi các bạn nông thôn !
Hay tiếng gọi từ phù hoa đô thị:
Đó chỉ toàn là lời lẽ nói suông…
Bao hứa hẹn là những lời bong bóng
Bánh mì cho vị đắng hơn ngọt lành
Vẻ kiêu sa chỉ lừa dối các anh
Lòng sâu hiểm tranh giành thêm lợi lộc.
Hãy bình tĩnh, hài lòng sau công việc
Mỗi chiều về, sum họp với gia đình.
Dân thành thị, khi ca làm kết thúc
Chỉ mang về con vợ nỗi buồn tênh.
Hãy trung thành với rừng cây, đồng ruộng
Yêu thương nghề, yêu thung lũng diệu hiền
Cao quí lắm những bàn tay đáng trọng
Đã âm thầm lao động giúp nhân sinh…
J. A
34a. Les métiers
Sans le paysan, aurais-tu du pain ?
C’est avec le blé qu’on fait la farine;
L’homme et les enfants, tous mourraient de faim,
Si dans la vallée et sur la colline
On ne labourait et soir et matin ?
Sans le bucheron, roi de la forêt
Sans poutres, comment est-ce qu’on ferait
La maison du pauvre et celle du riche ?
Me6me notre chien n’aurait pas sa niche.
Où dormirait-tu, dis, sans le macon ?
C’est si bon d’avoir sa chaude maison
T.89
Où l’on n’est à table, ensemble en famille !
Qui cuirait la soupe, au feu qui pétille,
Sans le charbonnier qui fait le charbon ?
Sans le tisserand, qui ferait la toile ?
Et sans le tailleur, qui coudrait l’habit ?
Il ne fait pas chaud à la belle étoile !
Irions tout nus, le jour et la nuit,
Et l’hiver surtout, quand le nez bleuit ?
Aime le soldat qui doit te défendre !
Aime bien ta mère, avec ton coeur tendre:
C’est pour la défendre aussi qu’il se bat;
Quand les ennemis viendront pour la prendre,
Que devientrais-tu sans le bon soldat ?
Aime les métiers, le mien et les vôtres !
On voit bien des sots, pas un sot metier ;
Et toute la terre est comme un chantier ,
Où chaque métier sert à tous les autres,
Et tout travailleursert le monde entier.
Jean Aicard
* Jean Aicard (1848, Toulon – 1921, ): Nhà thơ Pháp.
Tác giả của những tập thơ: Poèmes de Provence; la Chanson de l’Enfant; Miette et Noré ; Le livre des petits, và những tiểu thuyết: le Pavé d’amour; Maurin des Maures. J. Aicard có giọng văn dung dị, thanh nhã mà linh hoạt. Ông có chân trong Hàn Lâm Viện Pháp.
34b. Nghề nghiệp
Không nhà nông, làm sao em có bánh
Vì bột bánh xây ra từ lúa mì ;
Người trẻ già sẽ chết vì đói lạnh,
Nếu trên đồi cao, và trong thung lũng
Không có người cày vất vả sớm chiều.
Không thợ làm bánh, ai làm ra bánh ?
Không người tiều phu, chúa tể rừng sâu
Không có xà nhà, sẽ làm thế nào
Nhà kẻ nghèo khó, nhà của người gìàu
Cả chó nhà ta không sao có cũi.
T. 90
Không người thợ xây, em ngủ nơi đâu ?
Vì cần lắm những ngôi nhà ấm cúng
Từ nơi đó cả gia đình ăn uống
Và ai nấu canh, nhúm củi cho mình
Nếu không kẻ làm ra than vất vả.
Không thợ dệt, làm sao ta có vải
Không thợ may, ai may áo ta mang ?
Để những đêm trời lạnh ở ngoài sân
Ta đi ra ngoài trần trụi được chăng
Nhất là mùa đông mũi ta lạnh cóng
Thương anh lính bảo vệ em cuộc sống
Em yêu mẹ hiền với cả tấm lòng
Cũng như anh đã gìn giữ non sông
Khi kẻ thù đến đây gây tang tóc
Em ra sao, nếu không người chiến đấu.
Hãy yêu nghề, của tôi và của bạn
Có người xấu nhưng chẳng có nghề tồi;
Cả quả đất làmột xưởng nhà thôi,
Tay nghề mình đỡ đần cho thợ khác
Thế giới này cần thiết kẻ cần lao.
J. A
35a. L’isolement
Souvent sur la montagne, à l’ombre du vieux chêne,
Au coucher du soleil, tristement je m’assieds;
Je promène au hasard mes regards sur la plaine,
Dont le tableau changeant se déroule à mes piedes
Ici gronde le fleuve aux vagues écumantes,
Il serpente et s’enfonce en un lointain obscur;
Là, le lac immobile étend ses eaux dormantes,
Où l’étoile du soir se lève dans l’azur.
Au sommet de ces monts couronnés de bois sombres
Le crépuscule encor jette un dernier rayon;
Et le char vaporeux de la reine des ombres
Monte, et blanchit dejà les bords de l’horizon.
T.91
Cependant, s’élancant de la flèche gothique,
Un son religieux se répand dans les airs:
Le voyageur s’arrête, et la cloche rustique
Aux derniers bruits du jour mele de saints concerts.
Mais à ces doux tableaux mon âme indifférente
N’éprouve devant eux ni charme ni transports;
Je contemple la terre ainsi qu’une âme errante;
Le soleil des vivants n’échauffe plus les morts.
De colline en colline en vain portant ma vue,
Du sud à l’aquilon, de l’aurore au couchant,
Je parcours tous les points de l’immense étendue,
Et je dis : Nulle part de bonheur ne m’attend…
Mais peut-être au delà des bornes de sa sphère,
Lieux où le vrai soleil éclaire d’autres cieux,
Si je pouvais laisser ma dépouille à la terre,
Ce que j’étais tant rêvé paraitrait à mes yeux.
Là, je m’enivrerais à la source où j’aspire:
Là, je retrouverais et l’espoir et l’amour,
Et ce bien ideal que toute âme désire,
Et qui n’a pas de nom au terrestre séjour.
Que ne puis-je, porté sur le char de l’aurore,
Vague objet de mes voeux, m’élancer jusqu’à toi !
Sur la terre d’exil pourquoi resté-je encore ?
Il n’est rien de commun entre la terre et moi.
Quand la feuille des bois tombe dans la prairie,
Le vent du soir s’éleve et l’arrache aux vallons;
Et moi, je suis semblable à la feuille fletrie :
Emportez-moi comme elle, orageux aquilons !
Lamartine
( Premières Méditations poétiques, 1820, I.)
35b. Cô đơn
Dưới bóng cội sên già rừng núi thẳm,
Ngồi buồn nghe rũ rượi dưới hoàng hôn;
Đưa mắt nhìn những đồng ruộng mênh mông
Như bức họa dưới chân mình đổi sắc .
T. 92
Tràng giang thét gầm sóng tung bọt trắng,
Bò lăng quăng tới vô tận mịt mù;
Mặt hồ yên trên lớp nước ao tù,
Lấp lánh chiếu vầng sao Hôm ló dạng.
Trên đỉnh núi xanh đại ngàn thăm thẳm
Hoàng hôn còn vương lại vệt nắng chiều ;
Và màn sương của đêm tối cô liêu
Giăng mù mịt phương trời xa mút mắt.
Mái nhà thờ chỉa lên trời nhọn hoắc,
Âm vang thiêng lan tỏa mấy tầng không:
Kẻ lữ hành dừng bước lắng nghe chuông
Tiếng vọng cuối quyện lời ca thánh nhạc.
Quang cảnh đẹp nhưng tâm hồn nào khác
Lòng dửng dưng không xao xuyến than ôi !
Đưa mắt nhìn trời đất cũng như tôi
Vệt nắng chẳng ấm lòng người dưới mộ.
Đồi lớp lớp mà mắt tôi không thấy
Phương nam gió bấc, từ sáng đến chiều,
Nhìn xa xăm khắp cả bốn phương trời
Không một nơi nào cho ta hạnh phúc…
Nhưng có lẽ bên kia bờ thế giới,
Nơi mặt trời chân lý ở bên kia
Lúc tan rã hình hài trên trái đất
Điều ước mơ mới hiện hữu bây giờ.
Phải, nơi đó là suối nguồn khao khát
Sẽ tìm về được hy vọng, tình yêu
Lý tưởng đẹp hồn tôi khao khát nhiều
Và không có tên cho kỳ đi nghỉ.
Tôi được gì, khi bắt đầu ngày mới
Mơ ước hảo huyền, khi nghĩ về em !
Trên đất lưu đày, sao tôi tồn tại
Còn gì chung giữa cõi thế và anh.
Chiếc lá rụng trên cánh đồng cỏ dại
Thung lũng sâu thổi tạt gió ban chiều,
Tôi chẳng khác chiếc lá vàng tê tái:
Gió lạnh ơi, mang tôi đi như nàng.
L.
HẾT
Bài đăng khác
- BẾN TÌNH Thơ Ngũ Lang
- Mùa xuân với thi ca không biên giới 17 Tháng Hai, 202135 1. Tặng Bùi Công Xem sách, chim rừng vào cửa đậu, Phê văn, hoa núi ghé nghiên soi. Tin vui thắng trận dồn chân ngựa, Nhớ cụ, thơ xuân tặng một bài. Hồ Chí Minh * Tiếng Anh: Giving Mr. Bui Readi
- THÀNH PHỐ MÙA XUÂN Thơ Diễm Thi
- TẬP THƠ LỜI TỰ TÌNH MÙA THU - NGŨ LANG
- TẬP THƠ BẾN TÌNH - NGŨ LANG
- TÌNH KHÚC MÙA XUÂN - NGŨ LANG